Chương
6
Tác
động của
Thần
khí
nơi
các tôn giáo khác
Đúc
kết quan điểm của các Nghị phụ tham dự Thượng hội đồng Giám mục Á châu, Tông thư
“Giáo hội tại Á châu” đề cao vai trò của Thần khí trong công cuộc sáng tạo và
trong lịch sử cứu độ. Sau khi nhắc lại quan điểm truyền thống về chức năng ban
sự sống của Chúa Thánh thần, Tông thư viết tiếp như sau: “Thật vậy, Thần khí là
nguồn gốc những ý tưởng cao thượng và những khởi điểm tốt đẹp của nhân loại lữ
hành:
Do
sự quan phòng kỳ diệu, Ngài hướng dẫn dòng chảy thời gian và đổi mới bộ mặt của
trái đất. Theo hướng đi của Công đồng Vatican II, các Nghị phụ Thượng Hội đồng đã
nhấn mạnh đến hoạt động phức biệt và đa dạng của Chúa Thánh thần. Chính Ngài liên
lỉ gieo những hạt giống chân lý giữa các dân tộc, cũng như giữa các tôn giáo, các
văn hóa và triết học của họ. Điều đó có nghĩa là các tôn giáo, văn hóa và triết
học này có khả năng giúp đỡ các dân tộc, một cách cá nhân hay tập thể, chống lại
sự dữ và phục vụ sự sống cũng như tất cả những gì thiện hảo. Các quyền lực của
sự chết cô lập các dân tộc, các xã hội và các cộng đồng tôn giáo, tạo nên nỗi
ngờ vực và đối nghịch dẫn đến những xung đột. Trái lại, Chúa Thánh thần nâng đỡ
các dân tộc trong cố gắng tìm kiếm để hiểu biết và chấp nhận nhau. Do đó, Thượng
Hội đồng có lý khi nhìn Thần khí của Thiên Chúa như là tác nhân đầu tiên của cuộc
đối thoại giữa Giáo hội với tất cả các dân tộc, các văn hóa và tôn giáo” .
Chúng
tôi trích dẫn bản văn khá dài ở trên nhằm dẫn nhập vào vai trò của Thần khí nơi
các tôn giáo và văn hóa. Chính Thần khí âm thầm hoạt động trong lòng lịch sử nhân
loại ngay từ ban đầu và vẫn tiếp tục hoạt động suốt dòng lịch sử cứu độ, mà cao
điểm là biến cố Nhập thể của Đức Kitô. Chúng ta cùng nhau khai triển và đào sâu
ý tưởng căn bản đó trong những dòng dưới đây.
1- Vai trò phổ
quát của Ngôi Lời
Trong Tân ước, từ “Logos” vừa có nghĩa
là Thiên Chúa vĩnh hằng (Ga 1,1), vừa có nghĩa là Ngôi Lời đã nhập thể (1,14).
Thánh sử Gioan nói rõ : Ngôi Lời là một ngôi vị Thiên Chúa(1,1-2), nhưng “đã trở
nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (1,14). Như vậy, Logos vừa siêu thời
gian và không gian, vừa đi vào lịch sử và mặc xác phàm trong con người Giêsu-Kitô.
Đức tin Kitô giáo xưng tụng Ngài là Đấng mạc khải, biến đổi và cứu độ gian trần.
Theo
“Lời tựa” của Tin Mừng theo thánh Gioan, Ngôi Lời vẫn hiện diện và tác động thật
sự trong lịch sử từ trước khi Ngài nhập thể trong Đức Giêsu Kitô: “Từ khởi thủy
đã có Ngôi Lời (...) và Ngôi Lời chính là Thiên Chúa(...). Nhờ Ngài, vạn vật được
tạo thành và không có Ngài, chẳng có vật gì hiện hữu”(Ga 1,1-3). Chính Ngài là
“ánh sáng chân thật...chiếu soi mọi người”(1,9). Nhưng cũng chính Ngài đã nhập thể và đi vào lịch
sử để trở thành Đấng cứu độ của nhân loại: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư
ngụ giữa chúng ta(...). Từ nguồn sung mãn của Ngài, tất cả chúng ta đã lãnh nhận
hết ơn này đến ơn khác” (Ga 1,14,16).
Truyền
thống Kitô giáo nhấn mạnh những hoạt động tiền Nhập thể của Ngôi Lời nhằm mục đích
chuẩn bị cho biến cố Nhập thể, một biến cố được coi là cao điểm trong lịch sử cứu
độ. Ngôi Lời vĩnh hằng, hiện hữu từ muôn thuở, và Ngôi Lời nhập thể trong một
thời gian và không gian, chỉ là một Thực Tại duy nhất và bất khả phân ly. Cho nên
Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể, phải là trung tâm điểm của kế hoạch cứu độ.
Tuy nhiên, nhìn từ một góc độ khác, biến cố nhập thể của Đức Giêsu Kitô vẫn không
tát cạn quyền năng và mầu nhiệm của Ngôi Lời. Tác động cứu độ của “Ngôi Lời không
nhập thể” (Logos asarkos), mà thánh Gioan gọi là “ánh sáng thật, chiếu soi mọi
người” (Ga 1,9) trải rộng cả trước lẫn sau biến cố nhập thể lịch sử của Đức Giêsu
Kitô .
Dù
gặp nhiều khó khăn trong việc chú giải “Lời tựa” này, ý nghĩa của bản văn vẫn
khá rõ rệt: Ngôi Lời của Thiên Chúa là nguồn ánh sáng cho mọi hữu thể nhân loại trong suốt dòng lịch sử,
kể cả giai đoạn trước biến cố Nhập thể. Sức mạnh chiếu sáng và cứu độ của Ngài
mang tính phổ quát và trải rộng khắp mọi thời, mọi nơi và mọi người. Do quyền năng
phát xuất từ thiên tính, chỉ duy Ngài có cuộc sống thần linh và khả năng ban ơn
cứu độ cho con người.
Chắc
chắn, trong mầu nhiệm của Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời không thể tách rời xác phàm
mà Ngài đã đảm nhận. Nhưng dù bất khả tách biệt đến đâu đi chăng nữa, chúng ta
vẫn có thể nhìn thấy vẻ khác biệt giữa Ngôi Lời và kinh nghiệm nhân loại của Đức
Giêsu Kitô. Có thể coi hành động nhân loại của Ngôi Lời nhập thể (Logos
ensarkos) là bí tích phổ quát của hành động cứu độ, nhưng nó không tát cạn tác động
cứu độ của Thiên Chúa. Tác động riêng của Ngôi Lời không nhập thể (Logos
asarkos) vẫn tiếp tục hiện hữu. Dĩ nhiên không hề có chuyện thiết lập một chương
trình cứu độ khác, song song với chương trình đã được thực hiện nơi Đức Kitô, bởi
vì Thần khí nhập thể và Thần khí không nhập thể cũng chỉ là Thần khí của Đức
Kitô â.
Mặt
khác, mầu nhiệm Nhập thể chính là một tặng vật ân tình và tuyệt đối nhất, mà
Thiên Chúa có thể ban cho nhân loại: “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả,
nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính
Ngài đã tỏ cho chúng ta biết”(Ga 1,18). Vì thế, mạc khải của Ngài là mạc khải
chung cuộc, “nơi Ngài, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể và
trong Ngài, anh em được sung mãn: Ngài vốn là đầu mọi quyền lực thần thiêng”
(Cl 2, 9-10) .
Mối
tương quan chặt chẽ giữa tính đặc thù của biến cố Đức Kitôâ với tính phổ quát của
chương trình cứu độ đã khai mở một viễn tượng mới cho thần học về tôn giáo
trong bối cảnh đa phức tôn giáo. Tông thư “Giáo hội tại Á châu” đúc kết vấn đề
như sau: “Dưới sự hướng dẫn của Thần khí, lịch sử cứu độ trải rộng ở mức độ thế
giới và ngay cả ở bình diện vũ trụ, theo chương trình đời đời của Thiên Chúa.
Chương trình này, do Thần khí chủ động ngay từ giây phút đầu tiên của công cuộc
sáng tạo, đã hiện diện trong Cựu ước và được hoàn thành nhờ hồng ân của Đức Giêsu
Kitôâ. Đồng thời được tiếp nối trong công cuộc sáng tạo mới dưới sức tác động của
chính Thần khí cho đến khi Chúa Kitô trở lại trong vinh quang lúc thời gian kết
thúc. Biến cố Nhập thể của Con Thiên Chúa được coi là công trình tuyệt diệu của
Thần khí: “Việc thụ thai và chào đời của Đức Giêsu Kitôâ thực sự là công trình
lớn lao nhất mà Chúa Thánh thần đã thực hiện trong lịch sử sáng tạo và cứu độ, đó
là ân sủng tuyệt diệu –ân sủng hợp nhất– suối nguồn của tất cả những ân sủng khác”
. Đây là biến cố mà qua đó Thiên Chúa qui tụ mọi sự về với Ngài trong một hợp
nhất mới và chung kết không những cho con người, mà còn cho tất cả tạo vật và lịch
sử” .
Tài
liệu làm việc của Thượng Hội đồng Giám mục Á châu đã trình bày vấn đề dưới một
lăng kính cởi mở và sâu sắc hơn: “Thần khí của Thiên Chúa động chạm, thanh tẩy
và cứu vớt không những các cá nhân, mà cả các nền văn hóa và tôn giáo nữa. Kể từ
đây, các nền văn hóa và các tôn giáo có chức năng cứu độ, như giáo chủ Gioan
Phaolô II ghi nhận: “Sự hiện diện và hoạt động của Thần khí không chỉ liên hệ đến
các cá nhân, mà còn liên hệ đến xã hội và lịch sử, các dân tộc, các nền văn hóa,
các tôn giáo. Thật vậy, Thần khí khởi động những ý tưởng cao thượng và những sáng
kiến tốt đẹp của nhân loại lữ hành. Do sự quan phòng đáng thán phục, Ngài hướng
dẫn những biến chuyển của thời gian và đổi mới bộ mặt của trái đất” . Ngài tiếp
tục gieo những mầm chân lý và ân sủng giữa tất cả các dân tộc, các nền triết học
và các tôn giáo của các dân tộc nói trên” .
Như
vậy, Nhập thể là một biến cố độc đáo và duy nhất, bởi vì chính Con Thiên Chúa đã
làm người và khi đảm nhận thân phận con người, Ngài đã mang khuôn mặt nhân loại
của một Thiên Chúa tự thân bất khả kiến, bất khả tri và vô thủy vô chung. Nếu
như vậy những khuôn mặt cứu độ khác có còn đóng vai trò nào không trong chương
trình cứu độ phổ quát của Thiên Chúa? Và nhất là có được Đức Kitôâ chiếu sáng để
trở thành dấu chỉ cứu độ cho tín đồ của các tôn giáo hay không?
2- Chiều kích vũ
trụ của Ngôi Lời
Trong
giáo huấn của một số giáo phụ, chúng ta gặp thấy chủ trương cho rằng lịch sử cứu
độ được trải rộng đến mọi dân tộc và tôn giáo, vượt rất xa biên giới của Do thái
giáo và Kitôâ giáo. Thánh Giustinô được nhìn nhận là người đầu tiên đã trình bày
chiều kích vũ trụ của Ngôi Lời.
Áp
dụng một cách linh động quan niệm “logos” của triết học Hy lạp vào biến cố Đức
Giêsu–Kitôâ, Giustinôâ đã đi đến xác quyết sau: “Con Thiên Chúa – Đấng duy nhất
được gọi là Con đích thực, Ngôi Lời hiện hữu cùng với Thiên Chúa và được sinh
ra trước khi tạo dựng vũ trụ, khi mà Thiên Chúa tạo dựng và xếp đặt mọi sự – mệnh
danh là Đức Kitôâ, vì được xức dầu và qua Ngài Thiên Chúa đã xếp đặt và quản trị
tất cả vũ trụ” .
Dưới
cái nhìn của vị thánh triết gia này, việc
Thiên Chúa biểu lộ qua trung gian của Ngôi Lời không bị giới hạn bởi chương
trình cứu độ thực hiện nơi dân tộc được tuyển chọn hay nơi biến cố Nhập thể. Thật
vậy, Ngôi Lời đã hiện diện trước khi Ngài thực sư nhập thể. Khắp nơi chúng ta gặp
thấy những hiền nhân đã sống theo linh ứng của Lời Thiên Chúa và đáng được mệnh
danh là Kitôâ hữu. “Đức Kitôâ là trưởng tử của Thiên Chúa, Ngôi Lời của Ngài,
nhờ Ngài tất cả mọi người được dự phần. Đó là điều chúng tôi đã lãnh nhận và là
điều chúng tôi đã công bố. Những ai sống theo linh ứng của Ngôi Lời đều là Kitôâ
hữu, cho dù xem ra đã trở thành vô thần, chẳng hạn nơi dân Hy lạp, Socrate, Héraclite
và đồng nghiệp của các ông, và nơi dân man di, Abraham, Ananias, Azarias, Misael,
Elia và rất nhiều người khác mà chúng ta không thể liệt kê danh tính của họ nơi
đây vì quá dài. Tương tự như thế tất cả những ai sống trái ngược với Logos là bọn
xấu, thù địch với Đức Kitôâ, sát hại các môn đệ của Logos. Còn những ai đã sống
và đang sống theo Logos là Kitôâ hữu, không sợ nguy hiễm và âu lo” .
Trong
cuốn Minh giáo II, Giustinô trình bày rõ hơn quan niệm về Logos như là nguồn suối
duy nhất của tất cả chân, thiện, mỹ trong vũ trụ. Từ viễn quan đức tin, Giustinôâ
đã muốn ôm trọn tất cả lịch sử nhân loại và đặt nó dưới sức tác động của Thần
khí: Tất cả những gì thiện hảo đều phát xuất từ Thần khí và như vậy có tương
quan với Kitô giáo. “Những người theo chủ nghĩa khắc kỷ đã thiết lập những nguyên
tắc luân lý đúng đắn; các thi sỹ cũng trình bày như vậy, bởi vì mầm bẩm sinh của
Logos tiềm ẩn trong nhân loại” .
Ngôi
Lời được quan niệm là nguồn duy nhất của tất cả mọi tri thức trong vũ trụ. Sự
khác biệt giữa những cấp độ nhận thức khác nhau là do mức độ tham dự nhiều hay
ít, trực tiếp hay gián tiếp vào nguồn chân lý chung này. Chính vì vậy, Giustinô
đã có một cái nhìn rất lạc quan về lịch sử nhân loại: “Tất cả những gì thiện hảo
thuộc về chúng ta, thuộc về các Kitôâ hữu chúng ta. Bởi vì sau Thiên Chúa, chúng
ta tôn thờ và yêu mến Ngôi Lời, sinh bởi Chúa Cha nhưng không phải tạo thành và
khôn tả, đã làm người cho chúng ta, ngõ hầu chữa trị sự xấu của chúng ta (...).
Các văn sỹ đã có thể nhìn một cách mờ mờ ảo ảo nhờ hạt giống Ngôi Lời gieo nơi
họ” .
Nói
tóm lại, tất cả các văn hóa và các tôn giáo cùng dự phần vào Logos, nhưng theo
mức độ rất khác biệt. Trong khi tín đồ các tôn giáo khác chỉ tham dự một phần
gia tài cứu độ, các Kitôâ hữu được hân hạnh đón nhận sự biểu lộ trọn vẹn nhờ biến
cố Nhập thể. Đối với Giustinôâ, biến cố Nhập thể là đỉnh cao của tiến trình cứu
độ, chạy dài từ công cuộc sáng tạo cho đến ngày thế mạt, bởi vì Đấng hiện hữu từ
muôn thủa đã đi vào thời gian và trở thành hữu hình khi Ngài mang thân phận con
người nơi Đức Giêsu–Kitôâ.
Các
Giám mục Á châu cũng đặc biệt nhấn mạnh đến sự hiện diện của “hạt giống Ngôi Lời”
được Thần khí gieo vào các nền văn hóa và các tôn giáo. “Tài liệu làm việc” của
Thượng Hội đồng Giám mục Á châu ghi nhận như sau: “Nhiều bản trả lời nhấn mạnh
rằng tất cả những gì đã đề cập về sự hiện diện cứu độ của Thần khí nơi các dân
tộc thì đặc biệt đúng đối với lục địa Á châu, chiếc nôi của các tôn giáo lớn trên
thế giới. Xét về mặt thực tiễn, các tôn giáo này đã là con đường dẫn đưa đại đa
số dân chúng Á châu đến với Thiên Chúa, cũng như là một cách thế Thiên Chúa sử
dụng để tiếp cận họ. Thần khí của Thiên Chúa đã tác động trong tâm trí của các
hiền giả Á châu cổ đại. Chính các vị đã để lại cho dân tộc mình chứng từ của những
giác ngộ tâm linh trong các kinh điển. Giáo huấn của các ngài vẫn còn hướng dẫn
đời sống tôn giáo, luân lý và xã hội của một số lớn người Á châu” .
3- Hai bàn tay cứu độ của Thiên Chúa
Tiếp
nối hướng đi của thánh Giustinô, thánh Irênêô cũng quan niệm công cuộc tạo dựng
là mạc khải đầu tiên mà Thiên Chúa biểu lộ cho nhân loại. Kể từ đó Thiên Chúa vẫn
tiếp tục bộc lộ cho nhân loại dưới nhiều dạng thức và cách thế khác nhau. Cho dù
có khác biệt đến đâu đi chăng nữa, tất cả mọi hình thức biểu lộ nói trên đều là
công trình của Ngôi Lời. Chính Ngài “đã dẫn đưa tất cả mọi sự, từ khởi đầu cho đến
chung cục, ngõ hầu đạt đến sự viên mãn của nó và nếu không có Ngài chẳng ai có
thể nhận biết Thiên Chúa. Bởi vì việc nhận biết Chúa Cha, chính là Chúa Con và
việc nhận biết Chúa Con được Chúa Cha mạc khải qua sự trung gian của Chúa
Con... Thật vậy, từ khởi thủy, Chúa Con (...) mạc khải Chúa Cha cho tất cả những
ai mà Chúa Cha muốn, vào thời điểm và theo cách thế mà Ngài qui định. Do đó,
trong tất cả mọi thời và trải qua vạn sự, chỉ có một Thiên Chúa Cha duy nhất,
chỉ có một Ngôi Lời, một thần khí và một chương trình cứu độ cho tất cả những
ai tin nơi Ngài” .
Dưới
cái nhìn của Irênêô, nhận biết Thiên Chúa không phải là một tri thức lý thuyết,
kết quả của lý luận và suy tư, mà là nhìn nhận Ngài như một Đấng vô thủy vô
chung đã đoái thương chiếu cố tới con người. Trong ý nghĩa đó, sự nhận biết Thiên
Chúa luôn luôn giả thiết một sự gặp gỡ cá nhân với Ngài. Cuộc gặp gỡ này nói
cho cùng chỉ là gặp gỡ với Ngôi Lời và chỉ có thể trở thành hiện thực nhờ công
cuộc tạo dựng, bởi vì qua tạo dựng, Ngôi Lời nói với con người. Do đó, công cuộc
tạo dựng là một thành phần của chương trình mạc khải và cứu độ của Thiên Chúa
cho nhân loại.
Về
vấn đề này, thánh Irênêô đã để lại cho chúng ta một số bản văn vừa hàm xúc vừa
rất gợi hứng, mà các tác giả sau này đã đưa ra nhiều lối giải thích khác nhau:
“Thực Tại bất khả kiến là Thiên Chúa, nhờ quyền năng, Ngài ban cho mọi người một
trí huệ lớn lao và một tri giác về vẻ tuyệt hảo và toàn năng của Ngài. Từ đó, nếu
như “không ai biết Chúa Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết Chúa Cha, trừ
Chúa Con và kẻ mà Ngài muốn mạc khải cho” (Mt 11,27; Lc 10,22), tuy vậy tất cả
mọi người có thể nhận biết Thực Tại bất khả kiến này (...) bởi vì Ngôi Lời, vốn
tiềm ẩn nơi trí huệ, dẫn đưa các hữu thể và mạc khải cho nó về sự hiện hữu của
Thiên Chúa duy nhất, Chúa tể mọi loài” .
Công
cuộc sáng tạo được coi là giai đoạn đầu tiên trong tiến trình mạc khải của Thiên
Chúa qua Ngôi Lời. Chương trình cứu độ mà Ngài đã thực hiện qua Do Thái giáo và Kitôâ giáo là những giai đoạn
kế tiếp. Có bốn giao ước chính đã được thực hiện với nhân loại: giao ước qua
Adam, giao ước qua Nuêâ, giao ước qua Mô-sê và giao ước qua Đức Kitôâ. Ngôi Lời
đã hiện diện và tác động trong tất cả và nơi mỗi một giao ước đó. Tuy nhiên sự
hiện diện và tác động của Ngài trở thành minh nhiên và độc sáng nhất nơi biến cố
nhập thể của Đức Kitôâ. Đây là một biến cố độc nhất vô nhị trong không gian cũng
như thời gian, đồng thời là đảm bảo tính cá biệt và mới mẻ của Kitôâ giáo. Thật
vậy, nhiều lần trong lịch sử nhân loại, Ngôi Lời đã biểu lộ một cách nào đó cho
tâm trí con người, dưới nhiều cách thế và dạng thức khác nhau, nhưng Ngài chỉ
thực sự trở thành khả kiến và khả tri cho người trần mắt thịt qua biến cố Nhập
thể.
Đức
Giêsu Kitôâ và Thần khí của Thiên Chúa được thánh Irênêôâ trình bày như “hai bàn
tay”, tức hai cách thế Thiên Chúa sử dụng để chuyển giao ơn cứu độ cho nhân loại
. Công cuộc cứu độ của Đức Kitôâ không tách rời khỏi tiến trình cứu độ chung,
trải dài từ biến cố sáng tạo cho đến ngày cánh chung, mà chính là trung tâm và
trọng điểm của tiến trình đó. Quan điểm thần học này không những đặt nổi chiều
kích lịch sử của chương trình cứu độ, mà còn đặt tất cả những “dòng suối cứu độ”
tiền hay hậu Kitôâ giáo vào cùng một dòng sông cứu độ chung.
Để
hiểu rõ vấn đề hơn, chúng ta hãy cùng nhau đọc lại hai bản văn phong phú và sâu
sắc của thánh Irênêô: “Đấng tác động mọi sự trong mọi người có sức mạnh và quyền
năng bất khả tri, bất khả giác đối với các thụ tạo. Tuy nhiên, đối với họ, Ngài
không phải hoàn toàn không thể nhận biết được, bởi vì tất cả đã được Ngôi Lời dạy
cho biết chỉ có Thiên Chúa Cha duy nhất, Ngài bao trùm vạn sự và ban sự sống
cho tất cả theo đúng như lời Chúa Kitôâ nói: “không ai đã thấy Thiên Chúa bao
giờ, nhưng Con Một là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha,
chính Ngài đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,18).
Ngôi
Lời là vị ban phát ân sủng của Thiên Chúa cho loài người. Chính Ngài đã hoàn thành
một chương trình cứu độ vĩ đại để mạc khải Thiên Chúa cho con người và giao hòa
con người với Thiên Chúa, bảo toàn tính bất khả kiến của Chúa Cha nhưng đồng thời
cũng làm cho Ngài thành khả kiến đối với con người. Bởi vì vinh quang của Thiên
Chúa chính là con người sống động và cuộc sống của con người chính là nhận biết
Thiên Chúa. Nếu qua công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã trao ban sự sống cho tất
cả hữu thể sống động ở trần gian, thì qua hành động mạc khải của Chúa Cha trong
Ngôi Lời, Ngài càng trao ban sự sống hơn nữa cho những ai đón nhận ân sủng của
Ngài” .
Mạc
khải của Thiên Chúa Cha qua Ngôi Lời được thực hiện một cách tiệm tiến và theo
nhiều cách thế rất đa dạng để đạt tới cao điểm trong biến cố Nhập thể. Nét độc
sáng của biến cố này trong tiến trình mạc khải và cứu độ được thánh Ireneô đúc
kết một cách sâu sắc và độc đáo qua công
thức sau đây: “Thực-tại-khả-kiến của Chúa Cha chính là Chúa Con” (Visibile
Patris Filius). Chúa Con là một cách thế vừa khả kiến vừa bất khả kiến để mạc
khải về Chúa Cha tuyệt đối bất khả kiến và vô thủy vô chung. Chính nơi Ngôi
Con, Thiên Chúa Cha vừa biểu lộ vừa ẩn mặt đối với nhân loại. Trong khi đó, nhờ
thực tại bất khả kiến và nhiệm mầu của Chúa Cha mà biến cố Nhập thể của Chúa
Con mang một ý nghĩa vô song, siêu việt và duy nhất: “Thực Tại bất khả kiến của
Chúa Con là Chúa Cha, nhưng Thực tại khả kiến của Chúa Cha là Chúa Con”
(Invisibile etenim Filii Pater, visibile
autem Patris Filius” .
Tuyên
ngôn “Dominus Jesus” của thánh bộ Đức tin trình bày tác động hỗ tương giữa Chúa
Thánh thần và Đức Kitô như sau: “Thần khí không hoạt động ở bên cạnh hay bên
ngoài Đức Kitô. Chỉ có một chương trình cứu độ của Thiên Chúa Duy nhất và Ba ngôi,
thể hiện trong mầu nhiệm nhập thể, chết và phục sinh của Con Thiên Chúa, được
thực hiện với sự cộng tác của Chúa Thánh thần và trải rộng ảnh hưởng cứu độ tới
toàn thể nhân loại và toàn thể vũ trụ: “Do đo,ù con người chỉ có thể vào trong
sự hiệp thông với Thiên Chúa qua Đức Kitô, dưới tác động của Chúa Thần khí”
.
4- Vai trò
“trung gian” của triết học
Trong
tác phẩm của Clementê thành Alexandria,
từ ngữ “Ngôi Lời” chiếm một vị trí rất quan trọng, mặc dù nguyên tắc căn bản về
Kitôâ học của ông vẫn tương tự với quan điểm của Irenêô. Theo ông, tất cả mọi
biểu lộ đặc biệt của Chúa Cha đều thực hiện qua trung gian của Ngôi Lời: “Chính
do Thần linh và do Ngôi Lời duy nhất phát xuất từ Thiên Chúa, mà con người có
thể nhận thức Đấng vô danh” .
Nếu
như đối với Giustinôâ và Irênêôâ, tất cả mọi tri thức mà chúng ta có được về
Thiên Chúa là do tác động của Ngôi Lời, thì Clementê phân biệt những gì nhân loại tuyệt đối không thể hiểu được,
mà phái ngộ đạo gọi là vực thẳm, với những gì con người có thể lãnh hội một khi
được Chúa Con mạc khải. Trước hết, con người có thể đạt tới tri thức chung và sơ
đẳng về Thiên Chúa qua suy luận của lý trí. Đây là loại tri thức tự nhiên mà mọi
người có thể đạt được. Thứ đến, trên một bình diện cao và đặc biệt hơn, với tác
động độc đáo, Ngôi Lời dẫn đưa con người vào những con đường huyền nhiệm mà tự
sức mình con người không thể vươn tới.
Ảnh
hưởng của Ngôi Lời trải rộng khắp nơi, vượt xa bên ngoài ranh giới của truyền
thống Do thái giáo và Kitôâ giáo, bởi vì thế giới “ngoại đạo” cũng có những ngôn
sứ riêng. Một số người Hy lạp, dưới tác động của Ngôi Lời, đã thực sự thi hành
sứ vụ ngôn sứ: “Phải chăng đó đã là một ân huệ tiên báo hay một thứ thần giao cách
cảm? Đó là những hình thức tiên tri? Các triết gia sâu sắc nhất của Hy lạp nhìn
thấy Thiên Chúa qua hình ảnh mờ nhạt, nhưng cũng có khi với tất cả vẻ trong sáng”
.
Clementê
có một cái nhìn khá lạc quan và tích cực về triết học: triết học đến từ Thiên
Chúa và hướng tới Ngài. Đối với thế giới Hy lạp, triết học nằm trong kế hoạch đặc
biệt của Thiên Chúa, nếu không tương ứng ít nhất cũng song song với chương
trình cứu độ Thiên Chúa đã thực hiện nơi người Do Thái qua Luật Mô-sê. Cả hai đều
do Thiên Chúa thiết lập để dẫn đưa nhân loại hướng tới Đức Kitôâ. “Đối với người
Do Thái, Ngài đã trao ban Lề Luật, đối với người Hy lạp Ngài ban tặng triết học,
ngõ hầu dân ngoại không có cớ tự bào chữa. Bởi vì qua hai tiến trình khác nhau,
Hy lạp và man di, Ngài dẫn đưa con người tới sự hoàn thiện trông chờ do đức
tin” .
Nói
một cách rõ rệt hơn, theo Clementê, triết học đã là một phương tiện cứu độ Thiên
Chúa ban cho người Hy lạp. “Trước khi Chúa đến trần gian, đối với người Hy lạp,
triết học đã được coi là bất khả thay thế trong việc dẫn đưa họ tới sự công
chính, bây giờ triết học trở thành hữu ích để dẫn đưa họ tới việc tôn thờ Thiên
Chúa. Triết học đóng vai trò chuẩn bị cho những tâm hồn muốn đạt tới niềm tin tôn
giáo qua lý chứng (...). Rất có thể triết học cũng được trao ban cho người Hy lạp
như một sự thiện trực tiếp, trước khi Chúa nới rộng lời mời gọi đến họ. Bởi vì,
cũng như Lề Luật đối với người Do Thái, triết học giáo dục người Hy lạp, ngõ hầu
dẫn đưa họ tới Đức Kitôâ. Triết học làm công tác chuẩn bị. Dĩ nhiên chỉ có một
con đường chân lý, nhưng nó giống như một dòng sông không hề khô cạn mà nhiều
con suối ở nhiều nơi khác nhau cùng đổ vào đó” .
Một
vài lần Clementê còn đi xa hơn. Ông không ngần ngại định nghĩa triết học như một
giao ước (diathèke) giữa Thiên Chúa với nhân loại, một lợi khí để vươn tới một
nền triết học Kitôâ giáo: “Triết học đã được ban tặng cho người Hy lạp như một
giao ước đặc biệt theo ý hướng của họ, làm như một tấm ván nhún để vươn tới một
triết học phù hợp với giáo huấn của Đức Kitôâ” .
Trong
viễn tượng đó, các triết gia có một sứ mệnh cao cả đối với dân tộc của họ và
triết học là biểu hiệu đức khôn ngoan, cũng như tâm tình tôn giáo của nhân loại.
Điều đó giả thiết các triết gia đã nhận được sự yểm trợ đặc biệt của sức mạnh
thần linh. Đối với người Hy lạp chẳng hạn, “triết học đã có một chức năng tương
tự như Lề Luật đối với người Do Thái. Triết học và Lề luật đã đóng vai trò chuẩn
bị để hướng tới sự viên mãn nơi Đức Kitôâ. Tuy nhiên có một sự khác biệt rõ rệt
giữa tác động của Thiên Chúa nơi các triết gia và nơi Cựu ước. Mặt khác, chỉ
trong Đức Giêsu là ánh sáng soi cho mọi người, thì mới có thể chiêm ngắm Lời hoàn
hảo và chân lý tròn đầy. Dù vậy, những mảnh vụn của chân lý cũng thuộc về toàn
thể chân lý” .
Giá
trị của triết học được đề cập ở đây trước tiên phải hiểu là triết học Hy lạp.
Tuy nhiên, chính Clementê cũng thú nhận là các triết gia Hy lạp không phải là
những bậc thầy vĩ đại đã cảm nghiệm được linh ứng thần linh để dẫn đưa các dân
tộc về với Đức Kitôâ. Ông cho rằng các triết gia Hy lạp đã vay mượn rất nhiều ở
các hiền giả cổ điển. Chính các hiền giả này mới thực sự là những vị hướng đạo
chân chính của nhân loại, những người được Thượng đế linh ứng và dưới sức tác động
của Ngôi Lời, họ đã dạy những chân lý thần linh cho các dân tộc. Trong số các vị
này, Clementê đặc biệt nói đến các hiền giả Ấn độ: “Ở Ấn độ có hai loại hiền giả,
gọi là Sarmanes và giáo sỹ Bàlamôn... Một số người Ấn độ tin theo giáo pháp của
Đức Phật, một người được họ tôn sùng như chính thượng đế, do sự thánh thiện trổi
vượt của Ngài” .
Dưới
ánh sáng của đức tin Kitôâ giáo, Clementê quả quyết: “Ngôi Lời của Chúa
Cha chính là ngọn đuốc sự thiện, là Đức
Chúa đã mang ánh sáng, đức tin và ơn cứu độ cho tất cả” . Ngài hiện diên và hoạt
động ở mọi thời mọi nơi để gieo vãi chân lý và ánh sáng cho nhân loại. Nói cách
khác, Ngôi Lời là “ánh sáng của nhân loại”. Đây là ánh sáng phổ quát chiếu soi
mọi người: “Xin hãy lắng nghe, anh em những người ở xa; xin hãy lắng nghe, anh
em những người ở gần, Ngôi Lời không hề lẩn trốn bất cứ ai; Ngài là ánh sáng
chung, Ngài chiếu soi mọi người” .
Cũng
như Giustinôâ và Irênêôâ, Clementê kết thúc suy tư của mình với cái nhìn lạc
quan về viễn tượng cứu độ phổ quát: “Ý định muôn thuở của Thiên Chúa là cứu độ
cộng đồng nhân loại. Chính vì vậy Thiên Chúa đã sai mục tử nhân lành. Ngôi Lời
ban chân lý cho con người để chỉ cho họ thấy tất cả chiều cao rộng của ơn cứu độ,
ngõ hầu họ được cứu độ khi biết sám hối, hoặc sẽ bị luận phạt, nếu bất phục tùng”
.
5- Tác động phổ quát của Thần khí
Nếu
biến cố Nhập thể của Đức Giêsu-Kitôâ, xét về phương diên nhân loại, bị giới hạn
một cách nào đó do điều cụ thể của lịch sử, tác động của Thần khí không hề bị
giới hạn bởi không gian hay thời gian. Hoạt động của Thần khí, trái lại, hoàn
toàn tự do, nhiệm mầu và thiên biến vạn hóa. Chúng ta chỉ mờ mờ nhìn thấy một số
hiệu quả, nhưng không thể nhận diện chính Thần khí và sức tác động vạn năng của
Ngài: “Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu
đến và thổi về đâu” (Ga 3,8).
Thần
khí của Thiên Chúa luôn hiện diện suốt dòng lịch sử nhân loại và vẫn tiếp tục tác
động ở bên ngoài ranh giới của Kitôâ giáo. Chính Ngài linh ứng cho tín đồ các tôn
giáo khác trên hành trình truy tầm chân lý. Một số thần học gia đã đặt câu hỏi:
Nếu các Kitôâ hữu được ơn cứu độ qua niềm tin vào Ngôi Lời nhập thể là Đức Giêsu
Kitôâ, thì tín đồ các tôn giáo khác có thể lãnh nhận ơn cứu độ qua tác động trực
tiếp của Thần khí hay không? Sự phân biệt giữa “hai bàn tay” của Thiên Chúa có
biện minh cho sự hiện hữu của hai phương thế khác nhau mà Thiên Chúa sử dụng để
chuyển giao ơn cứu độ cho tín đồ các tôn giáo khác? Nếu Thần khí là “đầu vào” cần
thiết của Thiên Chúa trong đời sống của các tôn giáo và các dân tộc, phải chăng
khi đặt nổi sức tác động của thần khí trong lịch sử nhân loại sẽ khai mở một lối
đi mới cho thần học về tôn giáo?
Có
thể ví Thần khí như “đầu vào” của Thiên Chúa ở mọi thời và mọi nơi, khi Thiên
Chúa tự mạc khải và truyền đạt sứ điệp của Ngài cho con người. Chính sự hiện diện
nội tại và tiềm ẩn của Thần khí là bảo chứng ân sủng cứu độ của Thiên Chúa. Dưới
nhãn quan đức tin Kitôâ giáo, hoạt động của Thần khí có thể khác biệt với hoạt động
của Đức Kitôâ, nhưng không bao giờ tách biệt và đối lập nhau. Càng không thể giải
thích như hai chương trình cứu độ song song hay đối lập. Đúng hơn đây là hai phương
thế bất khả phân ly, hai yếu tố bổ túc hay “hai bàn tay” của Thiên Chúa trong cùng
một tiến trình cứu độ .
Nói
cho cùng, Thần khí của Thiên Chúa đồng thời cũng là Thần khí của Đức Giêsu Kitôâ.
Do đó không thể triệt để tách rời hoạt động phổ quát của Thần khí khỏi tác động
phổ quát của Đức Kitôâ phục sinh. Chức năng cứu độ của Thần khí là chuẩn bị và
dẫn đưa con người gặp gỡ Đức Kitôâ, Đấng mà Thiên Chúa đã thiết lập như Trung
gian và Con đường cứu độ chính thức. Nói rõ hơn, chính Đức Kitôâ là trung tâm điểm
của con dường cứu độ, chứ không phải thần khí.
Trong
viễn tượng đó, nếu Thần khí hiện diện và hoạt động trong lịch sử từ trước biến
cố Đức Giêsu Kitôâ, chính là để chuẩn bị hay tiếp nối biến cố Nhập thể, một biến
cố được coi là trung tâm của lịch sử cứu độ. Sứ vụ đặc biệt của Thần khí, dù trước
hay sau biến cố Nhập thể, đều nhằm mục đích làm cho nhân loại tham dự hữu hiệu
và phổ quát hơn vào mầu nhiệm Phục sinh của Đức Kitôâ . Trong mọi hoàn cảnh, Thần
khí dun dủi và soi sáng để nhân loại nhận thức được rằng cao điểm của chương
trình cứu độ là mầu nhiệm Nhập thể. Như vậy, nhờ sức mạnh và sự hiện diện nhiệm
mầu của Thần khí, biến cố của Đức Kitôâ luôn được hiện đại hóa ở mọi thời và mọi
nơi.
Rất
hữu lý khi một số thần học gia đặt nổi quan điểm Kitôâ học theo chiều hướng “thần
khí học” như một chiều hướng thần học thích hợp hơn để trình bày yếu tố duy nhất
và phổ quát trong biến cố Đức Kitôâ: “Một Kitôâ học được trình bày trong viễn tượng
thần khí học cho phép liên kết dễ dàng hơn duy nhất tính với phổ quát tính của Đức
Giêsu Kitôâ. Nó có khả năng chứng tỏ rằng Thần khí đã tác động trong Đức Kitôâ
với tất cả tính sung mãn cũng chính là thần khí hoạt động khắp nơi trong lịch sử
nhân loại theo những mức độ khác hơn. Một Kitôâ học như thế cũng có khả năng chứng
minh rằng Đức Kitôâ là đích điểm và thủ lãnh của mọi người. Thân xác của Đức
Kitôâ, tức Giáo hội, thì lớn hơn và trải rộng hơn những giới hạn cơ chế của Giáo
hội(...). Tất cả những ai để cho Thần khí của Đức Kitôâ hướng dẫn trong niềm
tin, hy vọng và bác ái, đều thuộc về Ngài” .
Kể
từ Công đồng Vatican II, chủ trương cho rằng những ai vì một lý do nào đó chưa
gia nhập Giáo hội, nhưng chân thành sống theo lương tâm cũng được cứu độ, đã trở
thành một quan điểm chung. Giáo huấn chính thức của Giáo hội cũng đề cao vai trò
và hoạt động của Thần khí trong mầu nhiệm cứu độ. Hiến chế mục vụ về “Giáo hội
trong thế giới hôm nay” xác quyết: “Vì Đức Kitôâ đã chết cho mọi người và vì ơn
gọi cuối cùng của con người thực sự là duy nhất, nghĩa là do Thiên Chúa, cho nên
chúng ta phải tin chắc rằng Thần khí ban cho mọi người khả năng tham dự vào mầu
nhiệm Phục sinh, theo cách thế mà chỉ duy Thiên Chúa biết thôi” . Chính trong
viễn tượng tác động phổ quát của Thần khí mà thần học về tôn giáo đã xác quyết
giá trị cứu độ của các tôn giáo.
Theo
Sắc lệnh về hoạt động truyền giáo, “Thần khí đã hoạt động nơi trần gian trước
khi Đức Kitôâ được tôn vinh”, nhưng sự hiện diện của Ngài được biểu lộ một cách
đặc biệt qua biến cố Đức Giêsu Kitôâ và “trong ngày lễ Ngũ tuần”. Thành ra, “các
Kitôâ hữu cần làm chứng đức tin và đời sống Kitôâ giáo, đồng thời phải nhìn nhận,
bảo tồn và phát huy các giá trị siêu việt, đạo đức, xã hội và văn hóa nơi những
người theo các tôn giáo khác”(NA 2).
Hiến
chế “Ánh sáng muôn dân” vừa nhấn mạnh vai trò cần thiết của Giáo hội, vừa nhìn
nhận giá trị của các tôn giáo khác trong tiến trình cứu độ: “Tất cả những gì là
chân lý và ân sủng đã tìm thấy nơi các dân tộc như một sự hiện diện thầm kín của
Thiên Chúa, sẽ được hoạt động truyền giáo tháo gỡ khỏi những vết xấu và đưa về Đức
Kitôâ là Đấng tác thành chúng... Bởi vậy, những giá trị tích cực đã được gieo vãi
trong tâm hồn con người hay trong các lễ nghi và văn hóa của các dân tộc, không
những không bị hủy diệt, mà phải được thanh tẩy, thăng tiến và hoàn tất để Thiên
Chúa được tôn vinh, ma quỷ phải xấu hổ và con người được hạnh phúc” .
Trong
Thông điệp về Chúa Thánh thần (Dominum et vivificantem) ( 1986) giáo chủ Phaolô
II nhấn mạnh hơn sự hiện diện và tác động của Thần khí trong lịch sử. Ngày xưa
Ngài đã âm thầm hoạt động trong nhân loại trước khi Kitôâ giáo xuất hiện và ngày
nay Ngài vẫn không ngừng hoạt động trong thế giới, ngay bên ngoài phạm vi của
Giáo hội hữu hình. Thật vậy, chúng ta không giới hạn tác động của Thần khí “chỉ
vào hai ngàn năm, kể từ ngày Giáng sinh của Đức Kitôâ. Cần phải ngược dòng thời
gian, bao trọn tất cả tác động của Chúa Thánh thần trước Đức Kitôâ –ngay từ khởi
thủy – trong toàn thế giới và đặc biệt trong chương trình cứu độ nơi giao ước cũ”.
Thông
điệp “Sứ vụ cứu độ” còn đi xa hơn. Tác động của thần khí không chỉ giới hạn ở
chiều kích nội tâm và cá nhân, nhưng còn mang chiều kích văn hóa và xã hội: “Thần
khí ấy đã hoạt động trong công cuộc nhập thể, trong đời sống, cái chết và sự sống
lại của Đức Giêsu và đang tác động trong Giáo hội. Ngài không tự thay thế Đức
Kitôâ và cũng không lấp đầy khoảng trống giữa Đức Kitôâ và Ngôi Lời... Điều mà
Thần khí thực hiện trong tâm hồn con người và trong lịch sử các dân tộc, trong
các nền văn hóa và tôn giáo, là chu toàn nhiệm vụ chuẩn bị cho Tin Mừng. Công tác
này của Thần khí phải được thực hiện trong tương quan với Đức Kitôâ” .
Vì
Thần khí đã và đang tác động nơi các tôn giáo mà vấn đề thần học căn bản về giá
trị cứu độ của các tôn giáo được nêu lên. Tài liệu “Kitôâ giáo và các tôn giáo
khác” của Ủy ban thần học quốc tế ghi nhận: “Vì đã minh nhiên công nhận rằng Thần
khí của Đức Kitôâ hiện diện nơi các tôn giáo, chúng ta không thể phủ nhận việc
các tôn giáo, trong tư thế của mình, có thể mang một chức năng cứu độ nào đó,
nghĩa là các tôn giáo có thể giúp con người đạt đến cứu cánh tối hậu của mình,
cho dù còn mập mờ và thiếu sót(...). Thật khó có thể quan niệm rằng những gì Thần
khí thực hiện trong tâm hồn mỗi người có giá trị cứu độ, trong khi đó những điều
cũng do chính Thần khí ấy thực hiện nơi các tôn giáo và các nền văn hóa lại không
có giá trị cứu độ như thế. Giáo huấn của Giáo hội gần đây dường như không chấp
nhận sự phân biệt triệt để như vậy. Ngoài ra cần phải lưu ý rằng nhiều bản văn
mà chúng ta đã qui chiếu không những chỉ nói đến các tôn giáo mà còn nhắc đến các
nền văn hóa, lịch sử các dân tộc... bên cạnh các tôn giáo này. Tất cả các dữ kiện
đó cũng có thể được ân sủng tác động”
6. Nước Trời trải rộng...
Tính
độc đáo và vẻ nghịch thường của Nhập thể đã nối kết một cách tài tình cá biệt và
phổ quát, hữu hạn với Tuyệt Đối, thời gian và Vô thường. Chính tính độc đáo này
cho phép ta nối kết ý nghĩa phổ quát của chương trình cứu độ nơi Đức Kitô với
giá trị cứu độ nơi các tôn giáo khác. Mối bận tâm của nhiều thần học gia là giải
thích làm sao để có thể bảo vệ duy nhất tính của Đức Giêsu Kitô và đồng thời chấp
nhận giá trị tích cực của các tôn giáo khác. Theo E. Schillebeeckx, “Đức Giêsu
là biểu hiện duy nhất của ân huệ cứu độ đến từ Thiên Chúa cho tất cả mọi người,
nhưng xét theo một phương diện nào đó cũng là biểu hiệu bất tất, nghĩa là mang
tính lịch sử và do đó bị giới hạn”. Chính vì tính cá biệt và lịch sử này của biến
cố Nhập thế, mà “mạc khải của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, theo như Tin Mừng tường
thuật, không có nghĩa tuyệt đối thần linh hóa một đặc thù lịch sử (...). Trái lại
mạc khải này dạy chúng ta rằng không một đặc thù nào có thể tự cho là tuyệt đối(...).
Chính Đức Giêsu cũng không ngừng hướng chúng ta về Thiên Chúa, Đấng cao trọng hơn
Ngài. Ta có thể nói như sau: Thiên Chúa, qua Đức Giêsu Kitô và trong Thần khí,
tự biểu lộ như Đấng Tạo hóa và Đấng cứu độ, như một Thiên Chúa của con người, của
tất cả nhân loại. Chỉ duy Thiên Chúa là Tuyệt đối, và chẳng có tôn giáo nào tuyệt
đối cả”.
Trong
viễn tượng đó, thần học xét như một suy tư của con người về Thiên Chúa dưới ánh
sáng của đức tin sẽ đi xa hơn Kitô học. Jacque Dupuis nghĩ rằng “Đức Kitô vừa mạc
khải đồng thời vừa che dấu Thiên Chúa, bởi vì Ngài xuất hiện giữa chúng ta
trong một nhân tính không thần thiêng, một nhân tính của thụ tạo. Xét như là một
con người, Ngài là một hữu thể lịch sử và bất tất, nên không thể trình bày tất
cả vẻ phong phú của Thiên Chúa (...), ngoại trừ khi người ta phủ nhận giá trị đích
thực của nhân tính nơi Ngài”.
Chương
trình cứu độ của Thiên Chúa chỉ là một và bao trọn tất cả lịch sử nhân loại. Biến
cố Nhập thể của Ngôi Lời trong Đức Giêsu Kitô là cao điểm của tiến trình tiệm
tiến qua đó Thiên Chúa đã tự mạc khải cho con người. Hành động “làm người”, cuộc
sống nhân loại, giáo huấn, cái chết và sự Phục sinh vinh hiển của Ngài nói lên ý
nghĩa sâu thẳm và tuyệt vời nhất tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại.
Tuy
nhiên, tính độc đáo của biến cố Nhập thể trong chương trình cứu độ cũng không
cho phép chúng ta lãng quên hay đánh giá thấp hoạt động thường xuyên của Thần
khí. Sức mạnh chiếu sáng và cứu độ này không hề bị giới hạn bởi tính đặc thù của
biến cố lịch sử, trái lại luôn vượt trên tất cả những giới hạn về không gian và
thời gian. Quyền lực siêu việt của Ngài cho phép chúng ta nghĩ đến tính đa diện
trong cách thế can thiệp của Thiên Chúa vào lịch sử nhân loại và chấp nhận giá
trị tích cực của các tôn giáo khác.
Theo
thánh Gioan, “từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời(...). Ngài là ánh sáng thật, ánh sáng
đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1,1 &9). Ngài đã soi sáng và hướng
dẫn nhân loại từ trước khi Ngài mặc xác phàm. Ngài ban thần khí không phải chỉ
cho các cá nhân –hiền triết Socrate, đức Phật, đức Khổng và bao nhiêu trí giả
khác– mà còn cho các nền văn hóa, các truyền thống tôn giáo và triết học. Có thể
coi đây là những “con đường” hay “phương tiện” được sử dụng để truyền thông ánh
sáng thần linh cho con người. Giao ước giữa Thiên Chúa với Nuêù, chẳng hạn, là
biểu tượng giao ước với các dân tộc trong khung cảnh văn hóa và tôn giáo riêng
của họ. Một cách cụ thể hơn, giao ước Thiên Chúa thực hiện với Abraham và
Maisen là giao ước đặc biệt với dân tộc được tuyển chọn. Chúng ta gặp thấy
trong tiên tri Isaia nhiều bản văn đề cập đến sự cứu độ của các dân tộc trong bối
cảnh chương trình cứu độ dân Israel
(Is. 42- 66). Nhiều thần học gia đã đề cập đến một giao ước có tầm vóc vũ trụ,
như triết học chẳng hạn. Công đồng Vatican 2 cũng nhìn thấy trong truyền
thống các tôn giáo của nhân loại nhiều yếu tố của “chân lý và ân sủng” (AG 9).
Khai
triển hướng đi của Vatican 2, nhiều văn kiện chính thức của Giáo hội công nhận
là, xét về phương diện hiện thực lịch sử, Nước Trời trải rộng bên ngoài biên giới của Hội Thánh. Nước Trời đến
với mọi người trong nhân loại, hiện diện trong tất cả truyền thống văn hóa cũng
như tôn giáo và dưới sức tác động của Thần khí vẫn đang tiếp tục mở rộng thêm mãi.
Thông
điệp “Redemptoris Missio” công nhận một cách dè dặt: “Đành rằng dưới dạng thức
sơ khởi, Nước Thiên Chúa cũng có thể có mặt ngoài ranh giới của Hội thánh, giữa
các dân nước ở khắp nơi trên thế giới, theo nghĩa là họ sống thật “những giá trị
của Tin Mừng” và biết mở lòng đón nhận tác động của Thần khí, là Đấng muốn thổi
lúc nào và bao giờ thì thổi (xem Ga 3,8). Nhưng cần phải nói thêm ngay rằng bao
lâu chưa được nối kết với Nước Đức Kitô hiện diện trong Hội thánh và chưa cố gắng
tiến tới mức viên mãn cánh chung, bấy lâu dạng thức trần thế của Nước Thiên Chúa
vẫn chưa tròn đầy”(số 20).
Hiệp
Hội các Hội đồng Giám mục Á châu nêu rõ tính ưu tiên của Nước Thiên Chúa so với
Giáo hội. Là bí tích của Nước Thiên Chúa ở trong thế giới, Giáo hội có trách vụ
thông truyền cho người khác Tin Mừng về Nước Thiên Chúa đã được Đức Kitô khai mở
giữa lòng lịch sử. Công tác xây dựng Nước Thiên Chúa vượt xa bên ngoài biên giới
của Kitô giáo. Khi biết nhất trí dấn thân để bảo vệ nhân quyền, khi nỗ lực hoạt
động cho công cuộc phát triển toàn diện mỗi người và mọi người, đặc biệt là những
người nghèo và những người bị áp bức, khi hăng say cố võ những giá trị tôn giáo
và tâm linh, con người đang cùng nhau xây dựng Nước Thiên Chúa:
“Nước
Thiên Chúa... hiện diện và hoạt động ở khắp mọi nơi. Ở đâu con người biết mở rộng
lòng để đón nhận mầu nhiệm siêu việt của Thiên Chúa tác động trên họ và biết vượt
ra khỏi bản thân cá nhân mình để yêu mến và phục vụ anh chị em đồng loại, thì ở
đó Nước Thiên Chúa đang thực sự hoạt động. Như BIRA đã nhận định: “Nơi nào có người đón nhận Thiên
Chúa, có người sống thật những giá trị của Phúc Âm, nơi nào biết tôn trọng phẩm
giá con người, thì nơi đó Nước Thiên Chúa có mặt” (II,1, FABC II,423). Trong viễn
tượng đó, con người trả lời tương xứng nghĩa cử của Thiên Chúa ban tặng ân sủng
qua Đức Kitô trong Thần khí, và bước vào Nước Thiên Chúa qua hành vi đón nhận của
lòng tin (...).
Điều
đó cho thấy rằng Nước Thiên Chúa là một thực thể phổ quát, trải rộng ra ngoài
biên giới của Hội Thánh. Nước ấy chính là thực tại của ơn cứu độ trong Đức Giêsu
Kitô – thực tại mà Kitô hữu và những tín hữu khác đều cùng tham dự- và là “mầu
nhiệm hiệp nhất” cơ bản có một sức nối kết bền sâu kiên vững hơn là lực phân rẽ
mà những khác biệt về tín ngưỡng có thể khơi dậy để chia cắt và phân ly chúng
ta” .
Nói
cho cùng khi “Ngôi Lời đã nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga.1,14), tức
là cõi vĩnh hằng đã đi vào thời gian và tuyệt đối bắt gặp tương đối để biến đổi
nó từ bên trong. Khi “ánh sáng đến trần gian và chiếu soi mọi người” (Ga.1,9)
thì cuộc đời và con người được biến đổi, vì từ đó đã mang trong mình một hứa hẹn
tuyệt đối. Và như vậy, theo lời quả quyết của Đức Kitô, “Nước Trời đang ở trong
anh em” (Lc.17,21). Kể từ đó, tất cả những gì hữu hạn, tương đối, giới hạn, bất
tất ... không còn y nguyên nữa, mà phần nào đã được chắp cánh, thăng hoa và tuyệt-đối-hóa.
Rồi khi “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy
trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc
lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế (...), vâng lời
cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2, 6-8) cho muôn người
được tha tội (Mt 26,28) thì đương nhiên con đường cứu độ phổ quát đã khai mở.
Trong
viễn tượng đó, hồng y Walter Kasper có lý để kết luận: “đức tin Kitô giáo, đặc
biệt nhất trong tính chất phổ quát của nó, mà bao nhiêu người từng đặt nghi vấn,
là một lời mời gọi và một nền tảng cho thái độ bao dung và sự tôn trọng lẫn
nhau, cho chia sẻ và truyền thông, để trao đổi, cảm thông, giao hoà và hoà
bình. Niềm tin Kitô giáo chỉ cho ta con đường đi tới Đấng là “điểm hội tụ của tất
cả mọi ước vọng của lịch sử và của văn minh, là trung tâm của nhân loại, niềm
vui của mọi tâm hồn và sự hoàn thành của mọi khát vọng”(GS 45) .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét