NGUYỄN THÁI HỢP,
O.P.
ĐƯỜNG VÀO
THẦN
HỌC VỀ TÔN GIÁO
ĐỊNH HƯỚNG
TÙNG THƯ
2004
Nguyễn Thái Hợp, linh mục dòng
Đa-Minh, cử nhân Triết Đông (Đại học Văn
khoa, Sàigòn), tiến sỹ Triết học (Đại học Fribourg, Thuỵ Sỹ) và tiến sỹ Thần học
luân lý (São Paolo, Brasil), gíao sư tại Đại học Thánh Tôma, Roma, cũng như tại
nhiều Học Viện ở Mỹ châu Latinh và Việt Nam. Các tác phẩm sau cùng: Đức tin
& Văn hóa (2002), Bước theo Đức Kitô (2001), Đường vào thần học về tôn giáo
(2000), Giá trị đạo đức trong cơn lốc thị trường (1999), Một nửa hành trình của
con người và quê hương (1997)
Đường vào
Thần học về tôn giáo
Nguyễn Thái Hợp, O.P.
Đường vào
Thần học về tôn giáo
ISBN 2-912554-25-X
Cente de recherches religieuses André Phú Yên
Định Hướng Tùng thư
Tái bản lần thứ nhất
2004
Paul Nguyễn Thái Hợp, O.P.
Đường vào Thần học về tôn giáo
Tác giả giữ bản quyền
Tái bản lần thứ nhất 2004
Định Hướng Tùng thư
Centre de recherches religieuses André Phú Yên
13 G rue de l’III
67116 Reichstett - France
Lời
nói đầu
Kitô
giáo tự bản chất là một tôn giáo nhập thể và nhập thế, lăn lưng vào đời để biến
đổi và cứu vớt cuộc đời từ nền tảng. Công
đồng Vatican 2 đã đúc kết một cách ngắn gọn như sau: “Thiên Chúa, Đấng tạo dựng
và bảo tồn vạn sự nhờ Ngôi Lời, không ngừng làm chứng về Ngài trước mặt loài người
qua các tạo vật. Vì muốn khai mở con đường cứu độ cao cả, nên từ đầu Ngài tự mạc
khải cho tổ tông chúng ta. Sau khi tổ tông sa ngã, Ngài hứa ban ơn cứu chuộc và
đã vực họ dậy trong niềm hy vọng cứu độ. Ngài không ngừng săn sóc nhân loại ngõ
hầu ban sự sống vĩnh cửu cho tất cả những ai tìm kiếm ơn cứu độ trong kiên tâm
hành thiện. Khi đến giờ đã định, Ngài gọi Abraham ngõ hầu qua ông, tạo dựng một
dân tộc lớn mạnh, một dân tộc mà sau thời các Tổ phụ, Ngài đã dùng Maisen và các
ngôn sứ để dạy họ nhận biết Ngài là Thiên Chúa duy nhất, hằng sống và chân thật,
là Cha quan phòng, thẩm phán chí công....
Sau
khi nói nhiều lần và nhiều cách thế qua các Ngôn sứ, “vào thời sau hết này, Thiên
Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh tử”. Thật vậy, Ngài đã sai Con Ngài là Ngôi
Lời vĩnh cửu, Đấng chiếu sáng mọi người, đến cư ngụ giữa loài người và mạc khải
cho họ những mầu nhiệm về Thiên Chúa. Như vậy, Đức Giêsu-Kitô, Ngôi Lời mặc xác
phàm, được sai đến “như con người cho loài người”, “rao truyền lời của Thiên Chúa”
và hoàn thành công cuộc cứu độ mà Chúa
Cha đã uỷ thác” .
Ngài sinh ra dưới bầu không khi Cựu ước,
lớn lên trong vòng lễ giáo Maisen, để rồi cũng sống, làm việc, suy tư, cầu nguyện,
rao giảng ơn cứu độ như một người Do thái giữa những người Do thái khác. Ngài
hoàn toàn hòa mình với đồng hương và đồng loại như một giọt nước giữa trăm ngàn
giọt nước khác.
Đặc biệt trong thời gian xuất thân
truyền Đạo, vấn đề thích nghi này đã trở thành một mâu thuẫn căn bản trong mối
tương quan căng thẳng giữa Ngài với các đầu mục Do thái. Đối với Đức Kitô, Lời
Thiên Chúa là một sứ điệp cứu độ được gởi đến cho con người cụ thể và sống động,
trong khi các đầu mục Do Thái lại quan niệm Lời Thiên Chúa như những công thức
cứng ngắc đã được truyền lại cho Maisen và phải áp dụng y nguyên cho mọi người,
ở mọi thời, mọi nơi. Mâu thuẫn này ngày càng trở nên gay gắt và trầm trọng. Các
đầu mục Do thái phản công mạnh mẽ. Họ tìm đủ mọi cách để thủ tiêu Ngài và thực
sự cuối cùng họ đã thành công. Đức Kitô đã chết thê thảm trên thập giá! Nhưng họ
vẫn không sao ngăn cản được đòi hỏi thích nghi và nhập thế của Tin Mừng.
Liền sau ngày Chúa Thánh thần hiện
xuống, các Tông đồ công khai xuất hiện trước dân Israel, dõng dạc tuyên bố sẽ
nhất quyết tiếp nối sứ điệp và chương trình của Đức Giêsu. Nhưng phải công nhận
rằng, với kiến thức hạn hẹp, đại đa số các vị cũng chỉ biết thể hiện sứ vụ rao
giảng Tin Mừng trong vòm trời và theo nhãn quan Do thái giáo mà thôi. Hơn thế nữa,
phái bảo thủ còn nhất quyết chủ trương duy trì Luật cũ. Họ sai người từ Giuđê đến
Antiokhia tuyên truyền rằng “Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ
Maisen, thì anh em không được cứu độ”(Cv 15,1). Tông đồ Phaolô đã cương quyết đấu
tranh không những để bảo vệ sự tự do hào hùng của con cái Chúa, mà trước tiên
nhằm đặt nổi giá trị ưu việt của niềm tin, vì thâm tín rằng “con người được nên
công chính không phải nhờ làm những gì Luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Giêsu
Kitô” .
Giáo đoàn Antiôkhia
quyết định cử Phaolô, Banaba và một vài đại biểu khác lên Giêrusalem gặp các Tông
đồ và các kỳ mục để thảo luận về vấn đề cương yếu này. Sau những cuộc tranh luận
gay go, Công đồng đầu tiên của Kitô giáo đã đi đến quyết định: “Thánh thần và
chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài
những điều cần thiết này: là không ăn đồ
đã cúng cho ngẫu tượng, không ăn tiết, thịt loài động vật không cắt tiết và tránh
gian dâm”(Cv 15, 28-29). Đây là một bước tiến rất quan trọng để Giáo hội có thể
thanh thản đi tới các dân ngoại, mặc dù mới chỉ là một bước rụt rè, chập chững
và xiêu vẹo.
Ra khỏi khung cảnh Do thái giáo, sứ điệp
Tin Mừng trước tiên được rao giảng cho những người thuộc văn hóa Hy-lạp và La-mã.
Nhưng trong giai đoạn đầu, giáo quyền rất dè dặt đối với việc hội nhập với nền
văn hóa, phong tục, lễ nghi “ngoại giáo”. Phải đợi một thời gian khá lâu, Tin Mừng
mới thật sự hội nhập vào nền văn hóa La-Hy, mới dám sử dụng triết học, ngôn ngữ,
phong tục, lễ nghi của xã hội La-Hy để trình bày sứ điệp cứu độ cho quần chúng
chịu ảnh hưởng của hai nền văn hóa này.
Thành quả trên sở dĩ có được là nhờ
nỗ lực suy tư và khả năng thích nghi của lớp người tiến bộ như Giustinôâ, Clêmentê
thành Alexandria, Origène, Basiliô, Ambrosiô, Augustinô... Thánh Basiliô, chẳng
hạn, công nhận rằng văn chương ngoại giáo cũng có thể giúp tín đồ hiểu rõ Đạo
Chúa hơn và ngài khuyên các bạn thanh niên nên bắt chước con ong biết hút lấy
những nhị hoa ở các nền văn minh đó.
Nghiên cứu triết học Hy lạp, thánh
Clementê thành Alexandria đã khám phá ra “mầm Ngôi Lời” và giá trị khai mở của
nó đối với chân lý mạc khải. Ngài mạnh dạn viết: “Chúa là nguyên nhân mọi sự
thiện. Có những điều thiện Ngài là nguyên nhân trực tiếp, chẳng hạn như Cựu ước
và Tân ước, cũng có những sự thiện qui hướng về đó, như triết học Hy lạp chẳng
hạn. Có khi chính triết học cũng là một di sản mà Chúa trực tiếp ban cho người
Hy-lạp, trước khi Ngài làm cho tiếng gọi của Ngài vang tới họ, bởi vì triết học
đã giáo hóa họ để dẫn đưa họ đến với Đức Kitô. Triết học đóng vai trò chuẩn bị:
nó mở lối và dẫn tới điều mà Đức Kitô sẽ hoàn thiện... Đã hẳn, chỉ có một con đường
chân lý duy nhất, nhưng tương tự như một dòng sông không bao giờ cạn, trong đó
những nguồn nước từ khắp nơi đổ về”.
Con đường thích nghi đó vẫn được tiếp
nối bởi các thế hệ Kitô giáo kế tiếp. Khi ánh sáng đức tin bắt đầu ló dạng ở Bắc
và Đông Âu, chẳng hạn, các vị thừa sai tiên khởi đã khéo léo dung hòa đức tin
Kitô giáo với phong tục và tín ngưỡng địa phương, nhờ vậy công cuộc truyền giáo
tiến triển mạnh. Giáo chủ Grêgoriô Cả đã sáng suốt chỉ thị cho các nhà truyền
giáo tại Anh quốc phải cố gắng trình bày Đạo Chúa sao cho phù hợp tối đa với tâm
thức, luân lý và phong tục địa phương. Ngài cũng khuyên không nên triệt hạ tất
cả đền thờ, hủy bỏ những ngày lễ tôn giáo hiện có, mà cố gắng biến đổi thành những
nơi thờ phượng Thiên Chúa và những ngày lễ Công giáo.
Tại Đức, thánh Bonifaciô cũng đưa ra
nhiều sáng kiến thích nghi táo bạo. Nhưng đặc sắc nhất có lẽ là sự nghiệp của
hai anh em thánh Cyrilliô và Methodeo trên cánh đồng truyền giáo tại Đông Âu.
Hai vị áp dụng một kế hoạch truyền giáo theo mô hình “hội nhập văn hóa”: chấp
nhận những giá trị cổ truyền của dân bản xứ, khởi xướng phong trào văn hóa địa
phương, đề cao tinh thần độc lập và tự hào dân tộc. Chính các vị đã sáng chế mẫu
tự Slave, rồi sử dụng nó để phiên dịch Tin Mừng, trình bày giáo lý Công giáo và
dùng làm ngôn ngữ chính thức trong phụng vụ.
Trên lãnh vực tư tưởng, các thần học
gia đã thành công trong việc xây dựng một nền thần học Kitô giáo, dựa trên những
quan niệm căn bản của triết học Hy-lạp. Chúng ta biết rằng ở vào đầu thế kỷ
XIII, triết học của Aristote bị cấm dạy tại các Đại học và Học viện Công giáo,
vì sợ ảnh hưởng tiêu cực đến đức tin. Ngay từ năm 1210, mệnh lệnh “cấm thư” được
giáo quyền ban hành: Nec libri Aristotelis, nec commenta legantur (triệt để cấm
đọc sách của Aristote và những sách giải thích tư tưởng của ông). Tuy nhiên, thánh
Albertô, thánh Tôma và những thần học gia tiến bộ không hề chùn bước. Các vị đã
sáng suốt sử dụng triết học của Aristote vừa để xây dựng một nền thần học Kytô
giáo, vừa có thể trả lời cho những yêu sách tri thức của thời đại. Bộ Tổng luận
thần học của thánh Tôma là một đóng góp to lớn cho nền thần học Kytô giáo, nhưng
đồng thời đã gây rất nhiều tranh luận và sóng gió trong Giáo hội thời bấy giờ.
Ngày 7 tháng 3 năm 1277, đúng vào lễ giỗ thứ ba của thánh Tôma, Tổng giám mục
Paris kết án 219 luận điểm thần học, trong số đó có khoảng 12 luận điểm liên hệ
đến tư tưởng thánh Tôma. Tất cả các giáo sư cũng bị “vạ tuyệt thông”, nếu trong
thời hạn 7 ngày không trình diện ở tòa Tổng giám mục để “làm tờ tự thú” và ký tên
chấp nhận bản án. Tình trạng ngột ngạt này kéo dài gần 50 năm. Mãi đến ngày 18
tháng 6 năm 1323, khi Tôma được phong thánh, những nghi kỵ và tố cáo mới bắt đầu
giảm nhẹ. Hai năm sau (1325), Tổng giám mục Paris tuyên bố hủy bỏ bản án năm
1277, chấm dứt hoàn toàn “vụ án tư tưởng” thời danh trong lịch sử Giáo hội .
Rất tiếc kể từ đó trở đi,
Giáo hội hình như ngày càng đóng khung và mọc rễ trong khung cảnh Tây phương. Vô
hình trung Kitô giáo bị đồng hóa với văn hóa Tây phương. Vấn đề thích nghi và hội
nhập nếu được đặt ra, thì cũng chỉ giới hạn vào một vài chi tiết phụ thuộc, vô
thưởng vô phạt.
Công bằng mà nói, nguyên
tắc Nhật bản với người Nhật bản, Trung hoa với người Trung hoa, Việt Nam với người
Việt Nam đã được giáo triều đề ra cho các thừa sai đầu tiên đi theo những thuyền
buôn của Bồ-Đào-Nha hay Tây-Ban-Nha. Đặc biệt, ngày 10-11-1659, khi cử hai giám
mục đầu tiên sang Đàng Trong và Đàng Ngoài, Bộ Truyền giáo đã chỉ thị rõ rệt:
“Các vị đừng tìm cách, đừng tìm lý lẽ
để thuyết phục các dân tộc thay đổi nghi thức, tập tục và phong hóa của họ, ngoại
trừ tất cả những gì rõ rệt trái ngược với tôn giáo và luân lý. Không có gì vô lý
bằng đem nước Pháp, nước Tây Ban Nha, nước Ý Đại Lợi hay một nước Âu châu nào
khác vào Trung quốc. Đừng đem đến cho các dân tộc ấy xứ sở của quí vị, mà chỉ đem
đến đức tin, một đức tin không chối từ cũng không làm tổn thương các nghi thức,
các tập tục của bất cứ một dân tộc nào, miễn là tất cả những cái đó không có gì
là xấu, mà trái lại, đức tin của chúng ta muốn người ta cứ duy trì và bảo vệ các
thứ đó. Có thể nói rằng tự bản chất con người luôn quý trọng, yêu mến và trân
trọng tập tục của xứ sở mình hơn hết. Vậy nguyên nhân gây nên xa cách và hận thù
là tìm cách thay đổi tập tục riêng của mỗi dân tộc, nhất là những tập tục đã có
từ lâu đời. Vậy việc gì sẽ xảy ra, nếu các vị xóa bỏ các tập tục đó để thay thế
bằng tập tục của xứ sở của các vị, đưa từ ngoài vào? Đừng bao giờ so sánh tập tục
của các dân tộc đó với các tập tục của các nước Âu châu. Trái lại các vị hãy
tìm cách làm quen với những tập tục đó. Hãy chiêm ngưỡng và tán dương những gì đáng
tán dương. Những gì không đáng ca ngợi, nếu không nên ca ngợi om xòm như những
kẻ nịnh hót, thì cũng nên khôn ngoan đừng phê phán hay đừng bao giờ kết án một
cách thiếu suy xét hoặc quá đáng...”.
Hơn 340 năm đã trôi qua, nhưng những
chỉ dẫn của Huấn dụ nói trên vẫn còn giá trị và vẫn duy trì tính thời sự. Rất
nhiều quyết định hội nhập văn hóa của Giáo hội vẫn chỉ là những bản văn chết. Cố
gắng thích nghi độc đáo của Mathieu Ricci, chẳng hạn, bị chết yểu. Mà dù sống sót
thì cũng rất “khó nuôi” trong bối cảnh của Giáo hội hậu công đồng Tridentinô.
Phải thành thực nhìn nhận rằng suốt dọc mấy thế kỷ liền sau Công đồng Tridentinô,
vấn đề thích nghi đã bị bỏ quên hay không được thực thi đúng mức. Không ai có
thể phủ nhận lòng nhiệt thành, sự tận tụy và tinh thần hy sinh cao độ của các
thừa sai ở trong giai đoạn này. Điều đáng buồn là các vị chỉ chú tâm xây dựng một
Giáo hội tại Á châu theo khuôn mẫu tiền chế của Tây phương, hơn là kiến tạo một
Giáo hội có khả năng sống và diễn tả niềm
tin bằng những chất liệu đặc biệt của Á châu.
Về phương diện thần học, các thừa
sai thường đánh giá một cách quá tiêu cực các tôn giáo truyền thống của Á châu.
Trong “Phép giảng tám ngày”, linh mục Đắc Lộ đã nhận định như sau về đức Phật:
“Bên Thiên-trúc-quốc thì có vua, tên là Tinh Phạn, mà đẻ con, dạ thì sáng, song
kiêu ngạo lắm. Đã lấy con vua nào gần đấy gả cho, mà sinh đẻ được một con gái đoạn,
thì khiến đi ở trên rừng một mình, dẫu vợ cãi mà chẳng cho, vì mình đã quen làm
việc dối, như pháp môn phù thủy, mà muốn cho người ta hãi mà khen nó, và lông láo
thong dong nói khó cùng ma quỉ. Mà trong nhiều quỉ dạy nó, thì có hai quỉ, tên
là Alala và Calala, quen làm thầy nó liên, mà nó thì ngồi giữa hai thầy quỉ ấy,
mà dạy nó đầu hết chớ tin gì có Chúa trời, cùng đặt tên nó là Thích-Ca (...). Lại
khiến nó thờ bụt, mà lấy mình Thích-ca làm cội rễ bụt ấy, như thể lấy mình là kẻ
làm nên trời đất, mà trị đấy” . Thánh Phanxicô Xaviê còn có những nhận định gay
gắt và cực đoan hơn. Trong một mức độ nào đó, có thể coi lối đánh giá tiêu cực
này như quan điểm chung của các thừa sai thời đó. Ngay cả nơi những thừa sai có
tinh thần cởi mở như Nobili, Ricci... chúng ta cũng nhận thấy cái nhìn thần học
tiêu cực về các tôn giáo ngoài Kitô giáo.
Cuối thế kỷ XIX, những biến đổi về
khoa học kỹ thuật, nhân chủng học, xã hội học và văn hóa đã đặt ra rất nhiều vấn
đề cho Giáo hội. Công cuộc canh tân và thích nghi, một lần nữa lại được đặt ra
một cách khẩn thiết. Nhiều nhà tư tưởng và thần học gia đã cố gắng tìm một hướng
đi phù hợp với hoàn cảnh mới, ngõ hầu rút ngắn hố cách biệt giữa Giáo hội với
thời đại, nhất là với con người. Có thể nói những văn kiện lớn của Công đồng
Vatican II sở dĩ có được là nhờ những tìm kiếm và suy tư khắc khoải của những
người như Mercier, J. Lagrange, Teilhard de Chardin, L-J. Lebret, J. Maritain, E. Gilson, D. Chenu, H. de Lubac, K.
Rahner, Y. Congar...
Trái với khuynh hướng của nhiều nhà “hộ giáo” ngày xưa thường chỉ nhìn các
tôn giáo ngoài Kitô giáo dưới khía cạnh tiêu cực và nhiều khi còn bóp méo cho
thêm xấu xa, thảm hại hơn, Công đồng Vatican II khai mở một giai đoạn mới trong
tương quan đối với các nền văn hóa và các tôn giáo. Hiến chế mục vụ về “Giáo hội
trong thế giới hôm nay” viết: “Giáo hội được sai đến với mọi dân tộc và mọi thời
đại. Giáo hội không thiên vị, không liên minh với bất cứ một chủng tộc, một quốc
gia, một lối sống riêng biệt nào, cũng không theo phong tục cổ đại hay hiện đại
nào hết. Luôn trung thành với truyền thống, đồng thời ý thức sứ mệnh đại đồng của
mình, Giáo hội hòa mình với những nền văn hóa khác nhau, do đó Giáo hội làm cho
chính mình và các nền văn hóa thêm phong phú”. .
Khi phân tích những giá
trị mà các tôn giáo ngoài Kitô giáo đã cống hiến cho nhân loại, Tuyên ngôn về
“Liên Lạc của Giáo hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo” khẳng định: "Giáo
hội không hề phủ nhận những gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo đó.
Với lòng tôn trọng chân thành, Giáo hội xét thấy những phương thức hành động và
lối sống, những huấn giới và giáo thuyết kia, tuy có nhiều điểm khác với chủ trương
mà Giáo hội duy trì, nhưng cũng thường đem lại ánh sáng Chân lý, Chân lý chiếu
soi cho mọi người (...). Vì thế Giáo hội khuyến khích con cái mình nhìn nhận,
duy trì và cổ động cho những thiện ích thiêng liêng cũng như luân lý và những
giá trị xã hội văn hóa của các tín đồ thuộc các tôn giáo khác, bằng con đường đối
thoại và hợp tác” .
Mặc dù cảm nghiệm tâm
linh và vấn đề cứu độ các dân tộc là một đề tài xưa như trái đất, nhưng bọâ môn
thần học nghiên cứu về các tôn giáo chỉ hình thành vào cuối thập niên 60 và bắt
đầu được hệ thống hóa kể từ thập niên 70 của thế kỷ XX, nhờ chiều hướng cởi mở
của Vatican II và sự phát triển của phong trào đại kết. Mục đích của bộä môn thần
học này là nghiên cứu vai trò cứu độ của các tôn giáo, dưới ánh sáng của Lời Chúa
và trong viễn tượng lịch sử cứu độ, theo đó Đức Kitô là Khởi đầu (Alpha) và
Chung kết (Omega). Câu hỏi căn bản sẽ là: trong bối cảnh đa phức tôn giáo phải
hiểu vai trò “trung gian cứu độ” của Đức Kitô như thế nào? Bên ngoài con đường
cứu độ chính thức của Đức Kitô, có còn con đường cứu độ nào khác không? Nếu có,
thì đâu là tương quan giữa Ngài với những con đường cứu độ này? Và, như vậy, Đức
Kitô sẽ chuyển giao ơn cứu độ cho các tín đồ ngoài Kitô giáo như thế nào?
Đây là một vấn đề rất
khó khăn và tế nhị, vì động chạm đến niềm tin và xác tín, mà cho đến nay thần học
Công giáo chưa có một giải đáp đồng thuận. Tuyên ngôn “Dominus Jesus” của Thánh
bộ Đức tin công nhận: “Về cách thế chuyển giao cho những người ngoài Kitô giáo ân
sủng cứu độ của Thiên Chúa, ân sủng luôn luôn được Đức Kitô trao ban trong Thần
khí và trong mối tương quan huyền nhiệm với Giáo hội, Công đồng Vatican II chỉ
xác quyết vỏn vẹn rằng Chúa ban ân sủng này "theo những con đường mà chỉ
duy Ngài biết thôi” . Theo Tuyên ngôn, trách nhiệm của “thần học là phải tìm cách đào sâu tư tưởng này. Công
tác thần học này cần được khuyến khích, bởi vì chắc chắn nó giúp hiểu rõ hơn các
chương trình cứu độ của Thiên Chúa và những hình thức thực hiện các chương
trình này” .
Cuốn sách nhỏ này nằm trong chiều hướng
suy tư và kiếm tìm nói trên ngõ hầu hiểu rõ hơn chương trình cứu độ phổ quát của
Thiên Chúa. Ước muốn khiêm tốn của người viết là giới thiệu một số thông tin và
đưa ra một vài nhận định chung quanh vấn đề gai góc và to lớn này. Đây chưa hẳn
là một cuốn nhập môn của “thần học về các tôn giáo”, hiểu theo nghĩa chặt của hạn
từ. Có thể nói trọng tâm của cuốn sách hầu như xoay quanh chủ đề: “Cứu độ,
trong viễn tượng đa phức tôn giáo” . Với nhiệm vụ thông tin, người viết cố gắng
giới thiệu một số quan điểm thần học chính và dĩ nhiên không nhất thiết đã hoàn
toàn đồng ý với tất cả những gì được trình bày trong những trang dưới đây.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét