Nguyễn Thái Hợp, O.P.
Đức Giêsu Kitô và các con
đường cứu độ khác
Bài đăng ở tập san Định Hướng
Bản
góp ý của Hội Đồng Giám mục Việt Nam gởi Thượng Hội Đồng Giám mục Á châu đã có
những nhận định sâu sắc và tích cực về các truyền thống tôn giáo tại Á châu:
“Giáo hội Việt Nam nghĩ rằng cần phải quan niệm lại cách thức loan báo Tin Mừng
cho các dân tộc Á châu. Trước hết, vì lục địa Á châu không phải là vùng đất
hoang vu mà chúng ta có thể gieo trồng bất cứ giống gì. Trái lại, đây là vùng
đất của những tôn giáo và của những nền văn hóa lâu đời hơn nhiều so với Âu
châu.
Ở đây vốn đã sẵn có một vũ trụ quan, một nhân
sinh quan và một quan niệm tôn giáo rất phong phú và còn khá vững chắc. Tại
đây, phần lớn người ta không phải là không biết đến Thiên Chúa, trái lại, họ
cũng đã cảm nghiệm được sự hiện diện của Người một cách nào đó và gọi Người
bằng những tên khác nhau như là Trời, là Thiên, là Brahman v.v... Do đó, “truyền
giáo” không phải là giới thiệu một Thiên Chúa, một Đức Kitô hoàn toàn xa
lạ, mà một cách nào đó, có thể nói là “làm sáng tỏ cái đức sáng” (minh minh
đức) vốn đã hiện hữu tiềm tàng hay là giúp cho người ta “ngộ” được
cái chân lý, mà theo Công đồng Vatican II, phần nào đã có trong các tôn giáo
khác, đặc biệt là của Á châu”.
Chính từ chiều hướng
cởi mở và trong viễn tượng đối thoại liên tôn đó, chúng ta sẽ cùng nhau suy
nghĩ về mối tương quan giữa Đức Kitô với những con đường cứu độ khác.
Đứng trên phương diện đối thoại liên tôn phải thành thật công nhận rằng việc
khẳng định niềm tin nơi Đức Kitô như Đấng Cứu độ phổ quát và duy nhất là một
vấn đề thần học vừa khẩn thiết, vừa gai góc nhất.
1. Quan niệm về cứu độ
Trước khi phân tích mối tương quan giữa Đức
Kitô với những con đường cứu độ khác, thiết tưởng cần viết đôi hàng về
quan niệm cứu độ hay cứu rỗi. Có thể nói “cứu độ” là một quan
niệm phức biệt và dị nghĩa, nhưng hiện diện hầu như trong tất cả các tôn giáo.
Nếu được phép đơn giản hóa vấn đề, chúng ta có thể thu gọn vào một kinh nghiệm
nền tảng: được cứu độ là được giải thoát khỏi một nguy hiểm có thể gây đau
thương và chết chóc. Tùy theo bản chất của nguy hiểm mà hành vi cứu độ được
hiểu như bảo vệ, cứu chữa, cứu chuộc hay giải thoát. Tùy theo truyền thống tôn
giáo, cứu độ lại được hiểu như cảm nhận cuộc sống sung mãn, được giải thoát hay
giác ngộ, đạt tới mức độ viên mãn, tự thực hiện, hạnh phúc vĩnh cửu, kết hợp
với Thực Tại Tối Hậu.
Chính từ kinh nghiệm
nhân bản và những kiểu nói để diễn tả kinh nghiệm đó mà mạc khải đã sử dụng để
trình bày một trong những chương trình quan trọng nhất của Thiên Chúa đối với
nhân loại: Thiên Chúa cứu độ loài người ngang qua Đức Giêsu Kitô, Đấng trung
gian duy nhất. Tin Mừng của Đức Kitô được định nghĩa như “lời cứu độ” (Cv
13,26) công bố trước tiên cho người Do thái, sau đó cho chư dân (Cv 13,47). Để
được cứu độ con người phải tin vào Đức Kitô (Cv 16,30t; Mc 16,16) và kêu cầu
Danh Ngài. Đối diện với hồng ân cứu độ, Do thái và dân ngoại đều giống nhau:
chẳng ai có thể tự cứu mình, chỉ duy “ân sủng của Đức Kitô sẽ cứu độ họ” (Cv 15,11).
Đối với truyền thống Kitô giáo, cứu rỗi trước
hết là được vượt qua những lỗi lầm, bất tất và hữu hạn của cuộc đời để tham dự
vào sự sống vĩnh hằng của Thiên Chúa. Theo kiểu nói của thánh Augustinô, đối
với thụ tạo, Thiên Chúa là hạnh phúc, sung mãn, mục đích cuối cùng. Được thông
hiệp với Ngài là được tất cả, là thiên đàng, là cứu độ. Mất Ngài, là đánh mất
tất cả, là trầm luân, là địa ngục. Kinh Thánh Kitô giáo dùng nhiều hình ảnh và
ẩn dụ để diễn tả trạng thái được cứu độ: yến tiệc, hôn lễ, đời sống vĩnh hằng,
bất tử, không còn bị hủy hoại, ánh sáng, bình an, an toàn, toại nguyện, viên
mãn, hài hòa với mọi thụ tạo, trở về nhà Cha, quê hương đích thực, hiển trị với
Thiên Chúa, diện kiến Ngài, tham dự sự sống vĩnh hằng và nhiệm mầu của Thiên
Chúa, hiệp thông trọn vẹn với các thiên thần, anh chị em đồng loại và vũ trụ
vật chất.
Đây
là một tiến trình cần sự đóng góp của con người, nhưng tự sức con người không
bao giờ có thể thực hiện được. Nếu một số tôn giáo trình bày cứu độ như
một nỗ lực tự giải thoát của chính con người, Kitô giáo luôn xác quyết cứu
độ là một hồng ân. Chính Đức Kitô giải thoát con người và Ngài là
Đấng Cứu Thế duy nhất.
Thần học Kitô giáo xác quyết đồng thời hai
quan niệm căn bản có vẻ như đối chọi nhau: hồng ân cứu độ phổ quát của Thiên
Chúa và vai trò đặc biệt của tự do nhân loại trong việc thực hiện chương trình
cứu độ. Thánh Augustinô tóm lược ý tưởng trên qua một câu nói đã trở thành cổ
điển: “Thiên Chúa dựng nên bạn không cần đến bạn, nhưng Ngài sẽ không cứu độ
bạn nếu không có sự cộng tác của chính bạn”. Nói rõ hơn, hồng ân và lời mời gọi
của Thiên Chúa luôn đợi chờ câu trả lời ưng thuận của con người. Nhưng chấp
thuận có câu trả lời tự do tức là đã giả thiết khả năng chối từ. Thiên Chúa
luôn tôn trọng tự do chọn lựa của con người, ngay cả trong những gì liên hệ đến
vận mạng của đời họ. Dù vậy Thiên Chúa vẫn cương quyết thực hiện chương trình
cứu độ của Ngài. Bất chấp mọi trở ngại, ý định cứu độ phổ quát của Ngài vẫn tồn
tại, ngay cả trong trường hợp phải đối đầu với sự chối từ và lầm lỗi của con
người.
Theo cái nhìn lạc quan
của các Giám mục Việt Nam, “đối với quần chúng Á Đông, từ “cứu rỗi” hàm
ý cuộc giải thoát (libérateur) mang ít giá trị hoặc có ý nghĩa hàm hồ, họ cũng
không coi trọng lắm ý nghĩa luân lý qua việc tẩy xóa tội lỗi, nhưng trong suy
nghĩ của chúng tôi thì chính lòng nhân từ, thương xót của Thiên Chúa mới có tác
động thực sự trên các tâm hồn(...). Mầu nhiệm Thiên Chúa làm người rất thích
hợp với tâm hồn Á Đông. Một Thiên Chúa đầy lòng yêu thương nhân từ, một Thiên
Chúa ở giữa loài người, chia sẻ thân phận con người và gánh vác những nỗi khổ
đau của nhân loại, rất gần với niềm tin tưởng và chờ đợi của những con người
vốn quen hướng tới khuôn mặt từ bi của Bồ Tát như Quan Thế Âm chẳng hạn.
“Chính trong Đức Kitô
mà Thiên Chúa muốn cho mọi người được ơn cứu độ và nhận biết Ngài là Cha của
mình. Vì thế mà chúng tôi dám khẳng định rằng sự “cứu rỗi” đối với người Á Đông
sẽ là một cuộc giao hòa toàn diện: thông qua phép Thánh Tẩy, con người được đưa
vào trong mối tương quan với Thiên Chúa là Cha trong người Con của Ngài là Đức
Giêsu Kitô; và trong sự sống thần linh thật phong phú của “tình Con” đối với
Thiên Chúa, họ mở rộng và liên kết với toàn thể gia đình nhân loại trong “tình
Huynh Đệ” đại đồng”.
2. Vai
trò độc sáng của Đức Kitô
Truyền thống Kitô giáo luôn đề cao và xác
quyết vai trò trung gian cứu độ của Đức Kitô. Nhưng từ sau Công đồng
Vatican II, Giáo hội Công giáo cũng công nhận giá trị tích cực của các tôn giáo
khác trong nhiệm cục cứu độ. Làm sao nối kết hai xác quyết có vẻ trái ngược đó?
Phải chăng vấn đề căn bản ở đây là nên hiểu như thế nào “vai trò trung gian
duy nhất” của Đức Kitô và đâu là mối tương quan giữa Ngài với những khuôn
mặt cứu độ khác?
Trước hết cần xác định ý nghĩa của từ “trung
gian”. Tân ước dùng hạn từ “trung gian” (mesitès) vừa nói về Đức Giêsu (1
Tm 2,5; Dt 8,6; 9,15; 12,24) vừa ám chỉ Maisen (Gal 3,19- 20). Tuy cùng dùng
một chữ, nhưng hai trường hợp này có ý nghĩa khác nhau. Maisen được gọi làm
“trung gian” giữa Thiên chúa và dân tộc của ông để thiết lập Giao ước theo sáng
kiến của Thiên Chúa. Đức Kitô, trái lại, là Đấng “trung gian” giữa Thiên Chúa
và nhân loại, vì nơi Ngài thiên tính và nhân tính đã kết hợp chặt chẽ: “qua
biến cố nhập thể của Đức Kitô, trong một mức độ nào đó Con Thiên Chúa đã kết
hợp với mọi người”.
Truyền thống cũng quan niệm sứ vụ “trung
gian” của Đức Giêsu-Kitô mang tính độc đáo và duy nhất. Suốt dọc Tân ước, con
người của Đức Kitô luôn được đặt nổi và được trình bày như nguồn hy vọng lớn
lao cho lịch sử nhân loại. Tước hiệu vương giả bằng tiếng Arameo của Ngài là
“Mar”, nghĩa là Vua, Đức Chúa. Theo truyền thống kỳ cựu nhất của Kitô giáo, có
tương quan chặt chẽ giữa biến cố của lịch sứ của Đức Giêsu Nazareth với sự hiện diện của Nước Trời.
Chính Ngài là vị “ngôn sứ chung kết” và là “Đức Chúa phải
đến”. “Lạy Chúa Kitô, xin hãy đến”, đó là một âm hưởng lời kinh Do
thái–Arameo còn khá đậm nét nơi một số bản văn Tân ước.
Trong nhiều bản văn
Tân ước, chúng ta thoáng gặp, dưới dạng thức này hay dạng thức khác, xác tín
sâu xa rằng ơn cứu độ cho tất cả đến từ Thiên Chúa, qua trung gian của con
người Giêsu Nazareth. Các bản văn trực tiếp đề cập đến vai trò trung gian
duy nhất của Đức Giêsu là lời tuyên bố của ông Phêrô trước Thượng Hội đồng:
“Chính Ngài là tảng đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, tảng đá ấy lại trở nên đá
tảng góc tường. Ngoài Ngài ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời
này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ
vào danh đó mà được cứu độ” (Cv 4, 11-12).
Thơ thứ nhất gởi ông Timothê cũng xác quyết:
“Thật vậy, chỉ có một Thiên Chúa, chỉ có một Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và
loài người: đó là một con người, Đức Kitô Giêsu, Đấng đã tự hiến làm giá chuộc
mọi người” (1Tm 2, 5-6). Và chính Đức Kitô đã tuyên bố với các môn đệ: “Chính
Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không
qua Thầy” (Ga 14,6).
Chúng ta có thể trích dẫn thêm những bài ca
tán tụng trong thư của thánh Phaolô. Chúng ta đọc thấy trong thư gởi giáo đoàn
Ephesô những dòng sau: “Theo ý muốn và lòng nhân ái của Ngài, Ngài đã tiền định
cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời,
ân sủng người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu. Trong Thánh Tử, nhờ máu
Ngài đổ ra chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất
phong phú của Ngài” (Ep 1,5-7).
Như vậy, Thiên Chúa chỉ là Một, vị trung gian
giữa Ngài với nhân loại cũng chỉ là Một (1 Tm 2,5). Ngoài Ngài ra, chẳng còn ai
khác có thể cứu độ chúng ta, “bởi vì dưới bầu trời này không còn danh hiệu nào
khác nhờ đó chúng ta được cứu độ” (Cv 4,12). “Ngài chỉ vào cung thánh một lần
thôi và đã lãnh được ơn cứu độ vĩnh viễn cho chúng ta”(Dt 9,12). Chính Ngài đã
long trọng tuyên bố: “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến
với Chúa Cha mà không ngang qua Thầy” (Ga 14,6).
Thánh kinh cũng nhấn mạnh đến sự cần thiết
của đức tin và phép thanh tẩy để được cứu độ: “Không ai có thể vào Nước Thiên
Chúa nếu không sinh ra bởi nước và thần khí” (Ga 3,5). Khi sai các môn đệ đi
rao giảng Tin Mừng, Đức Kitô đã quả quyết: “Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được
cứu độ; còn ai không tin sẽ bị kết án” (Mc 16,16). Tính duy nhất của Đức
Giêsu-Kitô được biểu lộ rõ rệt qua niềm tin sâu xa của cộng đoàn Kitô giáo tiên
khởi và đã trở thành nguồn sức mạnh nội tại cũng như lẽ sống của cộng đoàn này.
Nhưng phải chăng chủ trương vai trò trung
gian cứu độ của Đức Kitô đương nhiên bao hàm quan điểm loại trừ mọi hình
thức trung gian khác? Nếu như vậy số phận những người ngoài Kitô giáo sẽ ra
sao? Tất cả những người ăn ngay ở lành, nhưng vì một lý do nào đó chưa nghe
biết Tin Mừng hay chưa gia nhập Đạo Chúa sẽ bị luận phạt hay sao? Không lẽ
Thiên Chúa, Đấng giàu lòng từ bi nhân hậu và cũng là “Đấng muốn cho mọi người
được cứu độ” (1Tm 2,4) lại đối sử với những người ngoài Kitô giáo như thế hay
sao? Chúng ta phải hiểu và giải thích những bản văn này như thế nào trong bối
cảnh đa nguyên tôn giáo hôm nay?
Tất cả những khúc mắc của vấn đề có lẽ tùy
thuộc cách hiểu và giải thích vai trò trung gian của Đức Kitô trong nhiệm
cục cứu độ. Trước đây, người ta thường hiểu “vai trò trung gian” này
theo nghĩa “duy nhất tính”, độc nhất, tuyệt đối khép kín và loại trừ.
Với hướng đi của Vatican II, chúng ta có thể duy trì đồng thời vai trò trung
gian của Đức Kitô với sự hiện diện của
những con đường cứu độ khác.
Bản góp ý của Hội đồng
Giám mục Việt Nam gởi Thượng Hội đồng Giám mục Á châu cũng nhìn thấy điểm khó
khăn nhất ở đây chính là vấn đề Kitô học: “Nếu trong bối cảnh đa diện
của các tôn giáo và các nền văn hóa ta nhận ra hoạt động của Thần khí Chúa dẫn
đưa các dân tộc Á châu tới Đức Kitô và Tin Mừng cứu rỗi của Ngài, thì một trong
những vấn nạn lớn nhất được đặt ra cho công việc rao giảng Tin Mừng tại Châu Á
là “làm cách nào Giáo hội tại châu Á có thể giải thích về Đức Giêsu-Kitô Cứu
Chúa, Cứu Chúa duy nhất, Đấng Trung gian cứu độ duy nhất, khác biệt hẳn với các
vị sáng lập các tôn giáo lớn tại Á châu?”(IL. 30).
Đồng thời Bản góp ý của Hội đồng Giám mục
Việt Nam
đề nghị giải thích vai trò trung gian của Đức Kitô như sau: “Chúng tôi hiểu từ
“duy nhất” (seul, unique) không theo nghĩa loại trừ (exclusive), nhưng
trong tính ưu việt, tuyệt hảo (excellent) của nó . Như thế người Á Đông,
trong vũ trụ quan và khát vọng tìm kiếm một sự hài hòa vô song giữa
Thiên-Địa-Nhân, tìm thấy ơn cứu độ duy nhất và tuyệt hảo nơi Đức Kitô, vì nhờ
Ngài, với Ngài và trong Ngài họ nhận lại được sự giao hòa toàn diện với Thiên
Chúa là Cha, với anh em đồng loại và với vũ trụ vạn vật. Tất cả các tôn giáo và
các học thuyết lớn tại Châu Á đã nỗ lực đi tìm và vun đắp sự hài hòa này và đã
đạt được một số thành quả nhất định, ước gì họ tìm thấy, qua việc trình bày Tin
Mừng của Đức Kitô, sự giao hòa ưu việt mà họ hằng mong ước. Một Kitô học như
thế, không những không thể phủ nhận vai trò Cứu Chúa duy nhất của Đức Kitô, mà
còn có thể mở ra một ý niệm hiệp thông đầy sinh động”.
Khoa chú giải Thánh kinh hiện đại cũng cho
thấy ngôn ngữ tôn giáo hoặc ngôn ngữ dùng để tuyên xưng niềm tin là một loại
văn thể riêng, có cơ cấu ngữ học khác với thứ ngôn rõ ràng và chính xác của
khoa học. Hình thức diễn tả của các bản văn Tân ước về vai trò trung gian của
Đức Kitô thuộc loại “văn hóa cổ điển” (classicist culture) chứ không
thuộc loại “văn hóa lịch sử” (historical culture). Theo “văn hóa cổ
điển” sự thật được quan niệm là duy nhất, vĩnh cửu, bất biến... Do đó,
những gì được quan niệm là đúng, là thật đều mang đặc tính duy nhất, vĩnh cửu,
bất biến và trở thành qui phạm cho mọi cái khác.
Lòng
tin cũng thường được diễn tả bằng những xác tín có tính cách tuyên xưng cam
kết (confessional language) và qua hình thức ngôn ngữ mang nặng tính quyết
liệt, sống chết (survival language). Thứ ngôn ngữ này thuộc lãnh vực tình
cảm, tâm lý và luân lý hơn là khách quan, triết lý và siêu hình. Nó thường hiểu
và diễn tả bằng những hạn từ như “tuyệt đối”, “duy nhất”, “vô song”. Dù
rằng không thể xếp những bản văn tôn giáo vào lối văn hùng biện, loại văn bóng
bẩy hoặc trữ tình, chúng ta gặp thấy nơi đây nét tương đồng và phảng phất chút
âm hưởng tuyệt đối, bất khả phân ly, độc nhất vô nhị của ngôn ngữ tình yêu.
Chẳng hạn khi một chàng trai si tình thề nguyền với người yêu: “Em là hoàng
hậu của lòng anh”, “ngàn đời anh chỉ yêu một mình em thôi” hay “đối với
anh, em là người phụ nữ đẹp và đáng yêu nhất đời”.
Người ta cũng cho rằng
trong bối cảnh huyền bí Do thái giáo, mang nặng màu sắc thế mạt, đương nhiên
được coi là hợp lý đối với Giáo hội tiên khởi giải thích kinh nghiệm về Thiên
Chúa nơi Đức Giêsu–Kitô như là kinh nghiệm sau cùng, quyết định và tối hậu.
Nhưng tâm trạng thế mạt này tự bản chất đã bị giới hạn bởi chiều kích văn hóa,
tôn giáo và lịch sử. Nó mang nặng dấu vết lịch sử của một bối cảnh văn hóa cá
biệt của một thời đã qua. Nếu Kitô giáo nguyên thủy được khai sinh hay tiếp xúc
với một bối cảnh văn hóa khác, với quan điểm về tâm linh và lịch sử khác biệt
hơn, có lẽ sẽ có một cái nhìn khác hơn.
Cuối cùng có người cho
rằng trong bối cảnh lịch sử đặc biệt mà Kitô giáo đã khai sinh và phải đương
đầu, thật tự nhiên đối với các môn đệ giới thiệu con đường của Đức Kitô như là con
đường duy nhất và tối hậu. Đây là một thứ ngôn ngữ thuộc loại “sống còn”,
hoặc thứ ngôn ngữ tình yêu, có khả năng động viên các tín đồ triệt để bước theo
Thầy. Trong mọi trường hợp, thứ ngôn ngữ tuyệt đối này chịu ảnh hưởng sâu đậm
của môi trường lịch sử đã khai sinh ra nó, nên cần được làm sáng tỏ hơn trong
bối cảnh đa phức tôn giáo.
R. Bernhardt đúc kết
tất cả các thể loại ngôn ngữ thế mạt, huyền bí, biểu tượng, sống còn và sứ điệp
tình yêu nói trên dưới đề mục “tuyên xưng và tán tụng”. Theo ông, các
bản văn của Tin Mừng không phải là tiểu luận siêu hình về vĩnh cửu tính và
tuyệt đối tính của Thiên Chúa, được mạc khải bởi Đức Kitô, mà là những bản
tuyên tín về Đức Kitô của các môn đệ. Các bản văn này không thể hiểu như nguyên
tắc siêu hình học về thực tại thần linh, mà là như một kinh nghiệm hiện sinh
của một thái độ dấn thân. Đây là một biểu hiệu của lòng tin vô điều kiện và
niềm hy vọng không thể lay chuyển giữa một hoàn cảnh đầy thất vọng.
Những lời tuyên tín
này trước tiên nhằm diễn tả chiều sâu và tầm quan trọng về mối tương quan cá
biệt với Thiên Chúa bất chấp những đe dọa bên ngoài. Sức mạnh của Thiên Chúa
được viện dẫn để chống lại quyền lực trần thế. Hầu như người ta có thể nói sức
mạnh của Thiên Chúa được kêu gọi, khẩn cầu. Như vậy, cái gọi là cao vọng của
Thánh kinh về tuyệt đối tính chỉ thuần túy là những lời nguyện cầu hay tuyên
tín công khai để nói với những người áp bức cũng như những người bị áp bức và
đồng thời để tâu lên Thiên Chúa. Trong dụng ngữ thần học, nó mang tính chất
tuyên xưng và tán tụng. Nếu tách rời nó
khỏi hoàn cảnh lịch sử đã khai sinh ra nó, tổng quát hóa nó và sử dụng nó để
kết án các tôn giáo ngoài Kitô giáo, sẽ làm biến chất ý nghĩa đặc thù của nó.
Qua những trình bày ở
trên, chúng ta cần hiểu duy nhất tính của Đức Kitô không theo nghĩa
tuyệt đối khép kín, mà cũng chẳng hoàn toàn tương đối, nhưng đồng thời sẽ là thiết
định, tuyệt đối và tương quan. Theo quan điểm Kitô giáo, thiết định có
nghĩa là mầu nhiệm giáng sinh, chết và sống lại của Đức Kitô mang một ý nghĩa
tròn đầy và phổ quát trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa đối với nhân
loại. Chính nơi đây ta gặp thấy dấu ấn giữa Thiên tính và nhân tính, một gạch
nối tuyệt vời và độc nhất vô nhị. Đây là con đường độc sáng mà Thiên Chúa đã
chọn lựa để mạc khải sứ điệp tình thương và chia sẻ thân phận làm người với mọi
người.
Hạn từ “tương quan” muốn nói lên cách
thế trình bày và hiểu ý nghĩa phổ quát của biến cố Đức Kitô trong chương trình
cứu độ của Thiên Chúa. Đặc biệt trong viễn tượng đa phức tôn giáo, hạn từ này
muốn diễn tả mối tương quan giữa “con đường độc sáng” được thực hiện nơi
Đức Kitô với những “con đường cứu độ khác”, được truyền thống các tôn
giáo Á châu giới thiệu cho tín đồ của họ.
Theo thần học Kitô giáo, chỉ duy Thiên Chúa
cứu độ con người. Không một người nào hay một tôn giáo nào, kể cả Kitô giáo, có
sức cứu độ. Do đó “con đường” hay “những con đường cứu độ”, nếu
có, là do Thiên Chúa hoạch định, chứ không thể hoàn toàn do sáng kiến hay khả
năng của con người. Từ đó vấn đề căn bản sẽ được đặt ra: trong chương trình
quan phòng của Thiên Chúa, ngoài “con đường độc sáng” được thực hiện nơi
Đức Giêsu Kitô có còn “con đường nào khác” nữa không? Nếu còn, những con
đường sau này sẽ tương quan với “con đường duy nhất” của Đức Kitô như
thế nào? Nói rõ hơn, làm sao niềm tin Kitô giáo vào hiệu năng phổ quát của ơn
cứu độ nơi Đức Kitô không tương phản với sự hiện diện của những giá trị tích
cực nơi các con đường khác?
Nói cho cùng, câu hỏi sinh tử ở đây sẽ là:
tín đồ các tôn giáo khác được cứu độ từ bên ngoài và bất chấp truyền thống tôn
giáo của họ hay ngược lại được cứu độ trong chính truyền thống tôn giáo của họ?
Nếu chấp nhận giải pháp thứ hai này, thần học về tôn giáo phải giải thích như
thế nào vai trò trung gian duy nhất của Đức Kitô và vai trò cứu độ
của các tôn giáo khác? Nếu có nhiều con đường cứu độ khác nhau, thì sự kiện
đa diện về cứu độ có nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa hay không?
Cuối cùng khi chấp nhận sự hiện diện của nhiều con đường cứu độ phải chăng
chúng ta đã tương đối hóa vai trò cứu độ của Đức Kitô?
3- Có
chăng nhiều con đường cứu độ?
Cho đến những năm gần
đây, thần học Công giáo còn khá nhiều do dự để chấp nhận sự hiện diện nhiều con
đường, cách thế hay phương tiện cứu độ, tương tự như con đường mà
thiên Chúa đã thực hiện nơi Đức Giêsu-Kitô. Nói một cách tổng quát, còn rất
nhiều ngần ngại và do dự trước quan điểm cho rằng các tôn giáo khác cũng có thể
là “con đường” qua đó Thiên Chúa của Đức Giêsu-Kitô tiếp xúc và chuyển
giao ơn cứu độ cho các tín đồ ngoài Kitô giáo.
Công đồng Vatican II
xác quyết rằng ơn cứu độ của Thiên Chúa không những “bao hàm tất cả những ai
nhận biết Đấng Tạo Hóa”, mà còn nới rộng tới “những ai vô tình chưa nhận biết
Thiên Chúa một cách rõ rệt, nhưng tìm kiếm Ngài với tâm hồn chân thành và dưới
sự hỗ trợ của ân thánh Chúa cố gắng sống một cách chính trực theo sự hướng dẫn của lương tâm”. Tiến thêm
một bước nữa, Công đồng cũng nhìn nhận những giá trị tích cực trong các truyền
thống tôn giáo ngoài Kitô giáo, nhưng vẫn chưa chính thức nhìn nhận các tôn
giáo này như những “con đường cứu độ”. Những bản văn chính liên quan đến
vấn đề này là Hiến chế “Ánh sáng muôn dân” số 16- 17, Tuyên ngôn về “Thời
đại chúng ta”(Nostra Aetate) số 2 và Sắc lệnh “Ad Gentes” các số 3,
9 và 11.
Xem ra giá trị cứu độ
tích cực mới được qui định cho các cá nhân, chứ chưa đề cập đến tập thể tôn
giáo hay văn hóa, mà các cá nhân này là thành phần. Tuy nhiên một khi đã nhìn
nhận giá trị tích cực nơi các tín đồ ngoài Kitô giáo, đương nhiên đã gián tiếp
nhìn nhận gía trị tích cực nơi các truyền thống tôn giáo và văn hóa của họ. Từ
đó sứ vụ rao giảng Tin Mừng không phải để phá đổ mà nhằm làm triển nở “tất cả
những gì thiện hảo trong tâm hồn và tư tưởng con người hoặc trong các lễ nghi
và văn hóa của họ” (Lumen Gentium, 17). Do đó, tất cả những gì thiện hảo, đã
được gieo trong tâm hồn con người hay trong các tôn giáo và văn hóa của các dân
tộc sẽ không bị hủy diệt, mà được thanh lọc, thăng tiến và hoàn thiện hóa (Ad
Gentes, 9).
Khi Công đồng nhìn
nhận những yếu tố “chân lý và ân sủng” chứa đựng trong các tôn giáo ngoài Kitô
giáo “như một hiện diện huyền diệu của Thiên Chúa” (AG., 9) phải chăng đã gián
tiếp coi các tôn giáo này như những “con đường” cứu độ? Phải chăng chính
sự hiện diện của “Lời hạt giống” (AG., 11,15) trong các tôn giáo là nguyên nhân
của thái độ trân trọng của Giáo hội đối với các tôn giáo này?
Theo hướng đi của Công
Đồng, tài liệu của Văn phòng cho những người không thuộc về Kitô giáo, công bố
năm 1984, đã đúc kết và khai triển những giá trị tích cực của các tôn giáo
khác: “...Các nghị phụ của Công đồng xác quyết rằng, trong truyền thống tôn giáo
không Kitô giáo, có những điều “chân thiện” (LG.16), những “yếu tố quí báu, tâm
linh và nhân bản” (GS. 92), những “truyền thống chiêm niệm” (AG.9), “các hạt
giống của Ngôi Lời” (AG.11,15), “một tia sáng của Chân lý chiếu soi mọi người”
(NA.2). Theo các xác quyết minh nhiên của Công đồng, tất cả những giá trị này
được qui tụ nơi các truyền thống tôn giáo lớn của nhân loại. Do đó các truyền
thống tôn giáo này đáng được các Kitô hữu chú ý và trân trọng. Gia tài tinh
thần của các tôn giáo là một lời mời gọi đối thoại hữu hiệu không những ở những
điểm tương đồng, mà ngay cả ở những điểm tương phản”.
Nói chung Công đồng đã
khai mở một hướng đi mới không những về vấn đề cứu độ đối với những người ngoài
Kitô giáo xét như là cá nhân, mà còn thiết lập một tương quan tích cực giữa
Giáo hội với các tôn giáo khác. Tuy nhiên nếu Công đồng có cái nhìn lạc quan về
viễn tượng cứu độ của mỗi cá nhân, hình như cái nhìn cởi mở đó vẫn chưa được
chính thức áp dụng cho các tôn giáo. Ngoài ra ngôn ngữ dị nghĩa của một số bản
văn đã cho phép nhiều lối giải thích khác nhau, thậm chí tương phản nhau.
Giữa khóa 2 và khóa 3
của Công đồng, đức Phaolô VI công bố thông điệp “Ecclesiam suam”(6.8.1964)
trình bày lịch sử cứu độ như một cuộc đối thoại liên tục giữa Thiên Chúa với
nhân loại và vai trò của Giáo hội là tiếp nối cuộc đối thoại này. Thông điệp
chia cuộc đối thoại nói trên làm bốn cấp độ: đối thoại giữa Giáo hội với thế
giới; đối thoại với tín đồ các tôn giáo khác; đối thoại với các Giáo hội Kitô
khác và cuối cùng đối thoại trong nội bộ của Giáo hội. Đối với cuộc đối thoại
với các tôn giáo ngoài Kitô giáo, thái độ của thông điệp khá dè dặt và thận
trọng. Mặc dù chấp nhận “những giá trị tinh thần và luân lý của các tôn giáo
ngoài Kitô giáo”, thông điệp còn khẳng định xác tín cổ truyền theo đó “tôn giáo
đích thực và duy nhất là Kitô giáo, với ước vọng làm sao tất cả mọi người kiếm
tìm và tôn thờ Thiên Chúa sẽ công nhận điều đó ”.
Tông huấn “Evangelii
nuntiandi” cũng của giáo chủ Phaolô VI công bố năm 1974, được coi là một bản
đúc kết nội dung của Thượng hội Đồng giám mục về rao giảng Tin Mừng trong thế
giới hôm nay. Trong Thượng Hội đồng có nhiều đề nghị tích cực về đối thoại liên
tôn và yêu cầu xét lại thái độ của Kitô giáo đối với các tôn giáo khác. Tài
liệu chuẩn bị Thượng Hội đồng của Liên hiệp Hội đồng giám mục Á châu, chẳng
hạn, đánh giá rất cao các truyền thống tôn giáo tại lục địa mênh mông này. Các
giám mục Á châu công khai tuyên bố: “chúng tôi chấp nhận các truyền thống tôn
giáo Á châu như những yếu tố có ý nghĩa và tích cực trong chương trình cứu độ
của Thiên Chúa” (số 14). Tuy nhiên những đề nghị và ý kiến thuộc loại này hầu
như đã không có một âm vang nào trong Tông huấn.
Từ lục địa Á châu, nhiều người đã lấy làm
tiếc vì quan điểm có vẻ giật lùi và khép kín này. Chẳng hạn Tông huấn đã không
lấy lại quan điểm của Tuyên ngôn “Thời đại chúng ta” về mối tương quan
giữa Giáo hội với các tôn giáo khác; không hề đề cập đến sự hiện diện của Thánh
linh trong đời sống tôn giáo của những người ngoài Kitô giáo; hoàn toàn im lặng
trước những đề nghị cởi mở của các Giám mục Á châu và những nghiên cứu của thần
học về các tôn giáo. Có người nghĩ rằng Tông huấn xây dựng cuộc đối thoại trên
một căn bản thần học quá xưa và không còn được chấp nhận trong viễn tượng đa
phức tôn giáo. Hầu như không đưa ra một câu trả lời tích cực nào cho những
thách đố của sứ vụ truyền giáo Tin Mừng tại Á châu.
Đóng góp đặc biệt nhất của giáo chủ Gioan
Phaolô II cho nền “thần học về các tôn giáo” có lẽ là xác quyết sự hiện diện
tích cực của Thánh linh trong đời sống tâm linh của tín đồ các tôn giáo khác.
Ngay trong thông điệp đầu tiên “Đấng Cứu độ nhân loại”(1979), ngài tự vấn:
“Phải chăng một vài lần niềm tin kiên cường của tín dồ các tôn giáo khác – mà
thực sự niềm tin này cũng phát xuất từ Thánh Thần chân lý, Đấng tác động ngay
cả bên ngoài ranh giới hữu hình của Nhiệm tích- làm cho người Kitô hữu phải hổ
thẹn, bởi vì thường xuyên nghi ngờ chân lý do Thiên Chúa mạc khải và được Giáo
hội loan truyền”[1].
Chấp nhận sự hiện diện của Thánh linh ở bên
trong cũng như bên ngoài Giáo hội, đức Gioan Phaolô nhìn thấy nơi các tôn giáo
khác “những phản ảnh của chân lý duy nhất, các hạt giống của Ngôi Lời” (RH.11)
đang dẫn dắt nhân loại về một hướng duy nhất, bất chấp những con đường chọn lựa
có khác biệt nhau đến đâu chăng nữa.
Đặc biệt trong “Ngày thế giới cầu nguyện
cho hòa bình tại Assisi”, sau khi chứng kiến sự kiện tất cả các tham dự
viên cầu nguyện cho hòa bình theo căn tính tôn giáo riêng biệt, đức Gioan
Phaolô càng xác tín hơn nơi sự hiện diện và sức tác động của Thánh linh: “Tất
cả lời cầu nguyện đích thực đều do ảnh hưởng của Thánh linh, chính Ngài dạy
chúng ta là những kẻ yếu hèn biết cách cầu nguyện, vì chúng ta không biết cầu
nguyện thế nào cho phải đạo, chính Ngài cầu thay nguyện giúp cho chúng ta bằng
những tiếng rên rỉ khôn tả. Và Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm can biết Thần khí
muốn nói gì. Thật vậy, chúng ta cần ghi nhớ rằng tất cả lời cầu đích thực đều
phát xuất từ Thánh linh, Đấng hiện diện một cách huyền nhiệm trong tâm hồn mọi
người”.
Hoạt động của Thần khí trong lịch sử cứu độ
được đặt nổi hơn nữa trong thông điệp về Chúa Thánh Thần (Dominum et
vivificantem) (1986). Đức Gioan Phaolô II tái xác nhận hoạt động phổ quát của
Thần khí từ trước biến cố cứu độ của Đức
Giêsu Kitô và ngay ở bên ngoài phạm vi của Kitô giáo. “Không thể nào tự giới
hạn nơi hai ngàn năm sau cùng, kể từ biến cố Giáng sinh của Đức Giêsu. Cần phải
ngược dòng thời gian, ôm choàng tất cả hoạt động của Thánh linh từ trước biến
cố Đức Kitô – ngay từ khởi thủy – trong toàn thế giới và đặc biệt trong lịch sử
cứu độ của Cựu ước. Thực vậy tác động của Thánh linh được thể hiện ở mọi thời,
mọi nơi và trong mọi người, theo chương trình cứu độ phổ quát, qua đó hoạt động
của Thánh linh được nối kết chặt chẽ với mầu nhiệm nhập thể và cứu thế (...).
Tuy nhiên chúng ta cũng phải nhìn xa hơn và rộng hơn, khi biết rằng “gió
muốn thổi đâu thì thổi” (Ga 3,8). Công đồng Vatican II, chú trọng đặc biệt
ở đề tài Giáo hội, nhắc nhở chúng ta rằng Chúa Thánh linh cũng hoạt động “ở bên
ngoài” thân thể hữu hình của Giáo hội. Công đồng công nhận Thánh linh hoạt động
nơi “tất cả tâm hồn thiện chí”(GS.22) chứ không chỉ nơi các Kitô hữu mà thôi”
(số 53).
Thông điệp Redemptoris Missio, ban hành ngày
7.12.1990, xác quyết rõ rệt rằng Thần khí đã tác động không những trong các cá
nhân, mà còn nơi các truyền thống tôn giáo nữa: “Thần khí biểu lộ một cách đặc
biệt trong Giáo hội và trong các thành phần của Giáo hội, nhưng sự hiện diện và
tác động của Ngài thì phổ quát, không hề bị giới hạn bởi thời gian và không
gian(...). Thần khí là (...) căn nguyên của nỗi khắc khoải hiện sinh và tôn
giáo của con người, nỗi khắc khoải phát xuất không những từ những điều kiện bất
tất mà còn từ chính cơ cấu của hữu thể nhân loại. Sự hiện hữu và hoạt động của
Thần khí không phải chỉ liên quan tới các cá nhân, mà còn liên quan đến xã hội,
lịch sử, các dân tộc, các văn hóa và các tôn giáo” (số 28).
Việc chấp nhận sự hiện diện tích cực của Thần
khí Thiên Chúa nơi các truyền thống tôn giáo ở trên phải chăng đã gián tiếp
chấp nhận giá trị cứu độ của các tôn giáo này? Câu trích dẫn ở trên có lẽ cho
phép đi đến một kết luận lạc quan như thế. Tuy nhiên toàn bản văn của thông
điệp chưa cho phép chúng ta đưa ra một
câu kết luận quá lạc quan như vậy. Hơn nữa, trong một số tuyên bố gần đây,
người ta lại có cảm tưởng là hình như đức Gioan Phaolô lại quay về với quan
điểm “lý thuyết hoàn thành”, theo đó tất cả các tôn giáo gặp thấy sự “hoàn
thành” trong Đức Kitô và trong Kitô giáo, qua biến cố Con Thiên Chúa làm người.
Theo Tông thư “Ngàn năm thứ ba đang tới”,
điểm khác biệt căn bản giữa Kitô giáo với các tôn giáo khác chính là biến cố
Nhập thể của Đức Giêsu Kitô. “Ở đây không chỉ có việc con người kiếm tìm Thiên
Chúa, mà chính Thiên Chúa đích thân nói với con người về chính Ngài và chỉ cho
con người con đường đến với Ngài (...). Do đó Ngôi Lời Nhập thể đã hoàn thành
khát vọng tiềm ẩn trong tất cả các tôn giáo nhân loại: việc hoàn thành này là
tác phẩm của Thiên Chúa và nó vượt trên tất cả sự mong chờ của nhân loại. Đây
là một mầu nhiệm ân sủng” (số 6).
Tài liệu “Đối thoại và rao truyền” của Hội
Đồng Giáo hoàng về Đối thoại Liên tôn và Thánh bộ Truyền bá Phúc âm cho các Dân
tộc có một cái nhìn cởi mở và tích cực hơn về vai trò của các truyền thống tôn
giáo. Theo tài liệu này, mầu nhiệm cứu độ đến với tín đồ các tôn giáo khác
“bằng những con đường mà chỉ duy Thiên Chúa biết thôi, dưới tác động vô hình
của Thần khí Đức Kitô. Nói một cách cụ thể, chính khi chân thành làm điều thiện
theo truyền thống tôn giáo của mình và sống đúng theo tiếng gọi của lương tâm,
tín đồ của các tôn giáo này đã trả lời một cách tích cực lời mời của Thiên Chúa
và lãnh nhận ơn cứu độ nơi chính Đức Giêsu-Kitô, cho dù họ không nhận biết Ngài
và không tuyên xưng Ngài như Đấng cứu độ của mình”
Ủy ban thần học quốc tế can đảm đặt câu hỏi
gai góc này: Các tôn giáo có phải là những trung gian của ơn cứu độ cho các tín
đồ của họ hay không? Sau khi phân tích nhiều lập trường và quan điểm đối
nghịch, Ủy ban đã đi đến kết luận sau: “Nếu sự cứu độ liên kết chặt chẽ với sự
xuất hiện lịch sử của Đức Giêsu thì việc nối kết mỗi người vào Đức Kitô, bằng
đức tin, không thể là việc tùy nghi. Chỉ trong Giáo hội, một tổ chức có tiếp
nối lịch sử với Đức Giêsu, người ta mới có thể sống trọn mầu nhiệm nầy. Vì thế,
Giáo hội nhất thiết phải loan truyền về Đức Kitô.
Không bao giờ có thể quan niệm có những “trung
gian” cứu độ khác tách rời khỏi con người Giêsu, Đấng trung gian duy nhất.
Nhưng xác định làm sao những người không biết đến Đức Giêsu mà có liên hệ với
Ngài, hoặc các tôn giáo có tương quan với Ngài như thế nào, việc đó lại càng
khó khăn hơn. Ở đây chúng ta phải đề cập đến những con đường bí nhiệm của Thánh
Linh, Đấng ban cho tất cả mọi người khả năng kết hợp với mầu nhiệm phục sinh
(GS.22); và tác động của Thánh linh cũng không thể không tương quan với Đức
Kitô (RM.29). Chính trong bối cảnh tác động phổ quát của Thần khí Đức Kitô, mà
chúng ta phải qui định vấn đề giá trị cứu độ của các tôn giáo”.
Hiệp hội Hội đồng các Giám mục Á châu nói
chung và Hội Đồng Giám mục Ấn độ nói riêng có thái độ cởi mở hơn nữa đối với
truyền thống các tôn giáo. Đa phức tôn giáo được coi như một trong những cách
thế mà Thiên Chúa đã sử dụng để thiết lập mối tương quan với các dân tộc. Nó
biểu lộ tính phong phú và đa diện nơi hoạt động của Ngài trong lịch sử. “Bản
chỉ dẫn về đối thoại liên tôn” của Hội đồng Giám mục Ấn độ đã công khai xác
nhận: “Đa phức tôn giáo là hậu quả phong phú của sáng tạo và ân sủng vô tận của
Thiên Chúa. Mặc dù phát xuất từ cùng một nguồn, các dân tộc đã nhận thức về vũ
trụ và đã biểu lộ ý thức về mầu nhiệm bằng nhiều cách thế khác nhau và chắc
chắn Thiên Chúa đã hiện diện trong công trình lịch sử này của các con cái Ngài.
Xem như thế, thay vì ân hận vì hiện tượng đa phúc tôn giáo, đúng hơn chúng ta
phải coi đây như một ân huệ của Thiên chúa”.
Tuyên ngôn “Dominus Jesus” của Thánh
bộ Đức tin, một Tuyên ngôn được đánh giá có lập trường cứng rắn và khép kín nhất trong 30 năm qua về
đối thoại liên tôn, cũng lập lại quan điểm cố hữu của Giáo hội: “Hiển nhiên,
các truyền thống tôn giáo khác nhau chứa đựng và đề nghị những yếu tố tôn giáo
đến từ Thiên Chúa và là thành phần của “điều mà Thần khí thực hiện trong tâm
hồn con người và trong lịch sử các dân tộc, trong các nền văn hoá và tôn giáo”.
Thật vậy, một số kinh nguyện và nghi lễ của các tôn giáo có thể đóng vai trò
chuẩn bị cho Tin Mừng, xét như là những
cơ hội hoặc những giáo huấn khuyến khích con người mở rộng tâm hồn cho tác động
thần linh. Tuy nhiên, người ta không thể gán cho chúng một nguồn gốc thần linh
hay tính hiệu năng cứu độ có hậu quả do sự (ex opere operato), điều riêng biệt
thuộc về các bí tích Kitô giáo. Ngoài ra, không thể quên sự hiện hữu của các
nghi lễ bắt nguồn từ những mê tín hay những sai lầm tương tự và tạo nên một
chướng ngại cho sự cứu độ”.
Tuyên ngôn cũng thẳng thắn lên án chủ nghĩa
thờ ơ và thuyết tương đối tôn giáo, cho rằng đạo nào cũng như đạo nào: “Với
biến cố của Đức Giêsu Kitô, đấng Cứu Thế, Thiên Chúa đã muốn rằng Giáo hội do
Ngài thiết lập trở thành dụng cụ cứu độ cho toàn thể nhân loại (x. Cv 17,
30-31). Chân lý đức tin này không giảm nhẹ lòng kính trọng chân thành của Giáo
hội đối với các tôn giáo trên thế giới, nhưng đồng thời cũng tuyên bố, một cách
quyết liệt không thể chấp nhận não trạng thờ ơ tôn giáo, “bị tiêm nhiễm bởi
thuyết tương đối tôn giáo, một thuyết đưa đến quan niệm "đạo nào cũng
tốt".
4. Ân sủng hiện diện nơi các tôn giáo
Khi đọc một số văn bản của Hiệp hội các Hội đồng gíam mục
Á châu và những cơ quan liên hệ, người ta nhìn thấy ngay sự nhạy cảm và trân
trọng đối với vai trò của các tôn giáo khác trong chương trình cứu độ của Thiên
Chúa. Có thể nói rằng kinh nghiệm sống và việc mục kích kinh nghiệm tâm linh
sâu xa nơi các truyền thống tôn giáo kỳ cựu đã giúp Giáo hội Công giáo tại Á
châu có cái nhìn cởi mở và tích cực hơn.
Vấn đề
nòng cốt được nêu lên là phải hiểu và giải thích sự hiện diện của nhiều con
đường hay cách thế cứu độ như thế nào? Đặc biệt, nếu chấp nhận hiện
tượng “đa diện” trong con đường cứu độ thì phải giải thích như thế nào vai trò
“trung gian của Đức Kitô”? Phải hiểu ra sao cách thế Thiên Chúa của Đức
Kitô chuyển giao ơn cứu độ cho những người thành tâm thiện chí qua truyền thống
của các tôn giáo khác? Làm sao sức mạnh cứu độ của Thiên Chúa biểu lộ qua biến
cố Nhập thể của Đức Kitô đạt tới tín đồ các tôn giáo khác? Nếu chấp nhận tác
động cứu rỗi của Thiên Chúa nơi Đức Kitô được chuyển thông cho tín đồ các tôn
giáo khác ngang qua “một trung gian” nào đó nơi truyền thống các tôn
giáo này, như vậy, trong một mức độ nào đó, các truyền thống tôn giáo này cũng
là một “con đường” cứu độ?
Khoa nhân
chủng học và xã hội học hiện tại giúp chúng ta ý thức rằng con người không phải
là một hữu thể cô độc, lẻ loi mà là một nhân vị sống trong một xã hội nhân
loại. Các hữu thể này trở thành con người đúng nghĩa nhờ những tương quan liên
nhân vị với người khác. Chính tương quan này làm cho con người được triển nở và
trở thành người hơn. Nhận định này cũng được áp dụng vào đời sống tôn giáo. Các
tín đồ không hiện hữu như những cá nhân cô độc, nhưng như thành viên của những
truyền thống và cộng đoàn tôn giáo nhất định nào đó. Họ trưởng thành và được
đào luyện trong truyền thống tôn giáo riêng biệt.
Nếu nhận
định trên chính xác và nhất là nếu một số tín đồ của các tôn giáo ngoài Kitô
giáo có kinh nghiệtâm linh sâu xa về Thiên Chúa, thì chúng ta có thể kết luận
các tôn giáo này phần nào đã biểu lộ sự gặp gỡ giữa con người với ân sủng? Nếu
như chúng ta không thể dễ dàng tách rời đời sống tâm linh của các tín đồ với
truyền thống tôn giáo của họ, thì càng không thể quả quyết rằng tín đồ của các
tôn giáo ngoài Kitô giáo có thể đạt đến ơn cứu độ nhờ sống trung thành với
lương tâm và chân thành với đời sống tôn giáo, nhưng đồng thời lại cho rằng
truyền thống tôn giáo của họ chẳng có một giá trị cứu độ nào cả.
Dĩ nhiên
cần phần biệt tâm tình tôn giáo chủ quan với giá trị tôn giáo khách quan, mặc
dù không bao giờ có thể hoàn toàn tách rời chúng. Các truyền thống tôn giáo của
nhân loại phát xuất từ kinh nghiệm tôn giáo của các cá nhân hoặc của các nhóm,
được tích lũy qua các giai đoạn lịch sử lâu dài. Kinh điển tôn giáo vừa bảo lưu
ký ước, vừa định chế hóa các kinh nghiệm tôn giáo. Như vậy thật khó chấp nhận
quan điểm cho rằng tín đồ của các tôn giáo có thể đạt tới sự cứu độ, nhưng tôn
giáo và văn hóa đã đào tạo nên họ lại chẳng có giá trị tích cực nào cả trong chương
trình cứu độ.
Để có thể
hiểu làm sao truyền thống các tôn giáo có thể được sử dụng như một “cách thế
trung gian nào đó” cho tín đồ của mình, chúng ta phải đi ngược dòng thời
gian... lên tới mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa nơi Đức Kitô. Thật vậy, qua Đức
Kitô, Thiên Chúa thiết lập một tương quan nhân vị với nhân loại. Ngài
trở thành Thiên-Chúa-ở-với-con-người và hiện diện với một khuôn mặt nhân
loại. Mỗi một kinh nghiệm đích thực về Thiên Chúa nơi Kitô hữu cũng như nơi tín
đồ của các tôn giáo khác là một cuộc gặp gỡ nào đó giữa Thiên Chúa với nhân
loại. Sự hiện diện của Thiên Chúa với nhân loại xét như là “hiện diện với”,
đặt Ngài trong mối tương quan nhân vị với con người như tương quan giữa Anh với
Tôi.
Tuy
nhiên, muôn đời Thiên Chúa vẫn là Đấng Tuyệt Đối, vượt bên trên và bên ngoài
tất cả mọi hữu hạn và mọi khuôn mặt nhân loại. Việc Thiên Chúa hạ cố đến với
con người là hoàn toàn do Ngài chủ động và vì khoảng cách cố hữu giữa Tuyệt
Đối với tương đối là một khoảng cách vô biên, cho nên hành động
chiếu cố này hoàn toàn là một ân huệ nhưng không.
Trong
Kitô giáo, sự hiện diện tự thân của Thiên Chúa đối với con người trong Đức Kitô
đạt đến khả giác bí tích cao nhất, minh nhiên nhất và hoàn hảo nhất. Tuy
nhiên “trung gian hoàn hảo của mầu nhiệm Đức Kitô” chỉ trực tiếp chuyển thông
cho các Kitô hữu, những người lãnh nhận Tin Mừng và tham dự vào đời sống phụng
vụ cũng như bí tích. Đối với tín đồ các tôn giáo khác thì sao? Theo một số thần
học gia, chính qua kinh nghiệm tôn giáo của họ chúng ta nhận diện được kinh
nghiệm về Thiên Chúa và về mầu nhiệm Đức Kitô. Có thể nói sự thực hành tôn giáo
và kinh nghiệm tâm linh biểu lộ, nâng đỡ và hàm chứa cuộc gặp gỡ của họ với
Thiên Chúa của Đức Kitô.
Trong ý
nghĩa và giới hạn đặc biệt đó, truyền thống các tôn giáo là “một thứ con
đường hay một cách thế cứu độ nào đó” cho tín đồ của họ? Phủ nhận kết luận
này rất có thể sẽ rơi vào sai lầm chia cắt đời sống tôn giáo của mỗi cá nhân
khỏi truyền thống tôn giáo khách quan, kết tạo bởi giáo lý, lễ nghi tế tự, giới
luật, dấn thân phục vụ ...
Tuy
nhiên, phải thành thật công nhận rằng trong giai đoạn hiện tại, rất khó xác
định một cách chính xác các truyền thống tôn giáo thực hiện vai trò trung gian
này cho tín đồ của họ ra sao. Càng khó khăn hơn nữa khi muốn xác định xem
“trong các truyền thống tôn giáo khác, những yếu tố nào trong những yếu tố này,
thực sự là do ân sủng, có khả năng giúp các tín đồ liên hệ đáp lại một cách
tích cực lời mời gọi của Thiên Chúa(...). Nhiều chính nhân, được Thánh linh
Thiên Chúa thúc đẩy, chắc chắn đã để lại dấu tích của mình trong nỗ lực hình
thành và phát triển truyền thống tôn giáo liên hệ, nhưng sự kiện đó không muốn
nói rằng đương nhiên tất cả mọi sự trong các truyền thống tôn giáo này nhất
thiết phải là tốt lành”.
Chúng ta
có thể nói rằng chương trình cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện dưới nhiều
dạng thức khác nhau trong suốt lịch sử nhân loại. Ân sủng của Thiên Chúa, mặc
dù rõ ràng là duy nhất, đã được chuyền thông cho con người qua nhiều hình thức
và cách thế khác biệt nhau, không những chỉ ở cấp độ mà còn ở thể loại nữa. Do
đó khi công nhận “yếu tố ân sủng” trong các truyền thống tôn giáo không có
nghĩa là chủ trương rằng tất cả các truyền thống tôn giáo đó đều giá trị như
nhau hoặc tất cả những yếu tố căn bản của các truyền thống tôn giáo đều hoàn
hảo cả. Càng không thể đặt các giới luật và lễ nghi tế tự của các truyền thống
tôn giáo này ngang hàng với các bí tích do Đức Kitô thiết lập.
Nỗ lực
tiếp cận và chân thành đối thoại với các truyền thống tôn giáo “cũng không cho
phép chúng ta nhắm mắt trước những mâu thuẫn có thể có giữa các truyền thống
này với mạc khải của Kitô giáo. Khi hoàn cảnh đòi hỏi, chúng ta phải nhìn nhận
có sự tương phản giữa một số yếu tố căn bản của Kitô giáo và một số khía cạnh
của các truyền thống này”.
Nói tóm
lại mầu nhiệm cứu độ vẫn là mầu nhiệm của Đức Kitô. Tuy nhiên mầu nhiệm này đã
được biểu lộ và chuyển đạt cho con người dưới nhiều hình thức khác nhau. Nếu
như trong Kitô giáo mầu nhiệm này được biểu lộ một cách minh nhiên, với
tất cả vẻ trong sáng và rõ rệt bao nhiêu có thể, thì trong các truyền thống tôn
giáo khác chỉ dưới dạng thức mặc nhiên và ám thị mà thôi.
Bất chấp
những khó khăn và trắc trở gặp thấy trên bước đường đối thoại liên tôn, Sứ Điệp
của Thượng Hội đồng Gíam mục Á châu bộc lộ niềm tin tưởng và lạc quan: “Chúng
tôi vui mừng nhìn nhận những giá trị thiêng liêng của những tôn giáo cao cả của
Á châu như Ấn giáo, Phật giáo, Do thái giáo, Hồi giáo... Chúng tôi quý trọng
những giá trị luân lý trong những phong tục và những thực hành mà người ta tìm
được trong giáo huấn của các hiền giả Á châu. Chúng tôi kính trọng các tín
ngưỡng và tập quán tôn giáo của những anh chị em bản xứ hay các bộ tộc; lòng
kính trọng của những anh chị em này đối với toàn thể thụ tạo diễn tả cho thấy
sự gần gũi của họ đối với Đấng Tạo hóa.
Cùng
chung với tất cả các dân tộc Á châu, chúng tôi ao ước được lớn lên trong sự
chia sẻ những điều phong phú của chúng ta và trong sự kính trọng đối với những
khác biệt giữa chúng ta. Chúng tôi nhất quyết làm việc chung với nhau để nâng
cao phẩm chất đời sống của dân tộc chúng ta. Chúng tôi coi đức tin của mình như
kho tàng quí báu nhất và mong chia sẻ kho tàng đức tin này với tất cả mọi
người, nhưng vẫn tôn trọng hoàn toàn những niềm tin tôn giáo và sự tự do của
anh chị em xung quanh”.
Có lẽ đây mới chỉ là những bước đầu chập chững trên chặng
đường đối thoại liên tôn dài hun hút! Nhưng phải chăng, như Đức Kitô đã hé mở
cho người thiếu phụ Samaria, với thiên niên kỷ thứ ba này, đã bắt đầu khai mở
một một giai đoạn mới trong tiến trình cứu độ: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến
giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại
Giêrusalem. Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng
chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do thái. Nhưng giờ đã đến – và
chính là lúc này đây – những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha
trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Ngài như
thế. Thiên Chúa là thần khí và những ai thờ phượng Ngài phải thờ phượng trong
thần khí và sự thật” (Ga 4,21-24).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét