Thứ Tư, 30 tháng 7, 2014

GM Nguyễn Thái Hợp





Nguyễn Thái Hợp

Linh mục dòng Đa-Minh
Giám mục giáo phận Vinh, Việt-Nam
Cử nhân Triết Đông (Đại học Văn khoa, Sàigòn),
Ttiến sỹ Triết học (Đại học Fribourg, Thuỵ Sỹ) và tiến sỹ Thần học luân lý (São Paolo, Brasil)
 Gíáo sư tại Đại học Thánh Tôma, Roma, cũng như tại nhiều Học Viện ở Mỹ châu Latinh và Việt Nam.
 Các tác phẩm sau cùng: Đức tin & Văn hóa (2002), Bước theo Đức Kitô (2001), Đường vào thần học về tôn giáo (2000), Giá trị đạo đức trong cơn lốc thị trường (1999), Một nửa hành trình của con người và quê hương (1997)

Đường vào Thần học về tôn giáo - Lời nói đầu



NGUYỄN THÁI HỢP, O.P.



ĐƯỜNG VÀO
THẦN HỌC VỀ TÔN GIÁO



                        ĐỊNH HƯỚNG TÙNG THƯ          
2004


Nguyễn Thái Hợp, linh mục dòng Đa-Minh, cử nhân Triết Đông  (Đại học Văn khoa, Sàigòn), tiến sỹ Triết học (Đại học Fribourg, Thuỵ Sỹ) và tiến sỹ Thần học luân lý (São Paolo, Brasil), gíao sư tại Đại học Thánh Tôma, Roma, cũng như tại nhiều Học Viện ở Mỹ châu Latinh và Việt Nam. Các tác phẩm sau cùng: Đức tin & Văn hóa (2002), Bước theo Đức Kitô (2001), Đường vào thần học về tôn giáo (2000), Giá trị đạo đức trong cơn lốc thị trường (1999), Một nửa hành trình của con người và quê hương (1997)

 

Đường vào

Thần học về tôn giáo


Nguyễn Thái Hợp, O.P.



Đường vào

Thần học về tôn giáo

ISBN 2-912554-25-X



Cente de recherches religieuses André Phú Yên
Định Hướng Tùng thư

Tái bản lần thứ nhất
2004


Paul Nguyễn Thái Hợp, O.P.
Đường vào Thần học về tôn giáo
Tác giả giữ bản quyền

Tái bản lần thứ nhất 2004
Định Hướng Tùng thư
Centre de recherches religieuses André Phú Yên
13 G rue de l’III
67116 Reichstett - France

  
Lời nói đầu



Kitô giáo tự bản chất là một tôn giáo nhập thể và nhập thế, lăn lưng vào đời để biến đổi và   cứu vớt cuộc đời từ nền tảng. Công đồng Vatican 2 đã đúc kết một cách ngắn gọn như sau: “Thiên Chúa, Đấng tạo dựng và bảo tồn vạn sự nhờ Ngôi Lời, không ngừng làm chứng về Ngài trước mặt loài người qua các tạo vật. Vì muốn khai mở con đường cứu độ cao cả, nên từ đầu Ngài tự mạc khải cho tổ tông chúng ta. Sau khi tổ tông sa ngã, Ngài hứa ban ơn cứu chuộc và đã vực họ dậy trong niềm hy vọng cứu độ. Ngài không ngừng săn sóc nhân loại ngõ hầu ban sự sống vĩnh cửu cho tất cả những ai tìm kiếm ơn cứu độ trong kiên tâm hành thiện. Khi đến giờ đã định, Ngài gọi Abraham ngõ hầu qua ông, tạo dựng một dân tộc lớn mạnh, một dân tộc mà sau thời các Tổ phụ, Ngài đã dùng Maisen và các ngôn sứ để dạy họ nhận biết Ngài là Thiên Chúa duy nhất, hằng sống và chân thật, là Cha quan phòng, thẩm phán chí công....

Sau khi nói nhiều lần và nhiều cách thế qua các Ngôn sứ, “vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh tử”. Thật vậy, Ngài đã sai Con Ngài là Ngôi Lời vĩnh cửu, Đấng chiếu sáng mọi người, đến cư ngụ giữa loài người và mạc khải cho họ những mầu nhiệm về Thiên Chúa. Như vậy, Đức Giêsu-Kitô, Ngôi Lời mặc xác phàm, được sai đến “như con người cho loài người”, “rao truyền lời của Thiên Chúa” và hoàn thành công cuộc  cứu độ mà Chúa Cha đã uỷ thác” .

            Ngài sinh ra dưới bầu không khi Cựu ước, lớn lên trong vòng lễ giáo Maisen, để rồi cũng sống, làm việc, suy tư, cầu nguyện, rao giảng ơn cứu độ như một người Do thái giữa những người Do thái khác. Ngài hoàn toàn hòa mình với đồng hương và đồng loại như một giọt nước giữa trăm ngàn giọt nước khác.

            Đặc biệt trong thời gian xuất thân truyền Đạo, vấn đề thích nghi này đã trở thành một mâu thuẫn căn bản trong mối tương quan căng thẳng giữa Ngài với các đầu mục Do thái. Đối với Đức Kitô, Lời Thiên Chúa là một sứ điệp cứu độ được gởi đến cho con người cụ thể và sống động, trong khi các đầu mục Do Thái lại quan niệm Lời Thiên Chúa như những công thức cứng ngắc đã được truyền lại cho Maisen và phải áp dụng y nguyên cho mọi người, ở mọi thời, mọi nơi. Mâu thuẫn này ngày càng trở nên gay gắt và trầm trọng. Các đầu mục Do thái phản công mạnh mẽ. Họ tìm đủ mọi cách để thủ tiêu Ngài và thực sự cuối cùng họ đã thành công. Đức Kitô đã chết thê thảm trên thập giá! Nhưng họ vẫn không sao ngăn cản được đòi hỏi thích nghi và nhập thế của Tin Mừng.

            Liền sau ngày Chúa Thánh thần hiện xuống, các Tông đồ công khai xuất hiện trước dân Israel, dõng dạc tuyên bố sẽ nhất quyết tiếp nối sứ điệp và chương trình của Đức Giêsu. Nhưng phải công nhận rằng, với kiến thức hạn hẹp, đại đa số các vị cũng chỉ biết thể hiện sứ vụ rao giảng Tin Mừng trong vòm trời và theo nhãn quan Do thái giáo mà thôi. Hơn thế nữa, phái bảo thủ còn nhất quyết chủ trương duy trì Luật cũ. Họ sai người từ Giuđê đến Antiokhia tuyên truyền rằng “Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Maisen, thì anh em không được cứu độ”(Cv 15,1). Tông đồ Phaolô đã cương quyết đấu tranh không những để bảo vệ sự tự do hào hùng của con cái Chúa, mà trước tiên nhằm đặt nổi giá trị ưu việt của niềm tin, vì thâm tín rằng “con người được nên công chính không phải nhờ làm những gì Luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô” .

Giáo đoàn Antiôkhia quyết định cử Phaolô, Banaba và một vài đại biểu khác lên Giêrusalem gặp các Tông đồ và các kỳ mục để thảo luận về vấn đề cương yếu này. Sau những cuộc tranh luận gay go, Công đồng đầu tiên của Kitô giáo đã đi đến quyết định: “Thánh thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết  này: là không ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, không ăn tiết, thịt loài động vật không cắt tiết và tránh gian dâm”(Cv 15, 28-29). Đây là một bước tiến rất quan trọng để Giáo hội có thể thanh thản đi tới các dân ngoại, mặc dù mới chỉ là một bước rụt rè, chập chững và xiêu vẹo.
       
            Ra khỏi khung cảnh Do thái giáo, sứ điệp Tin Mừng trước tiên được rao giảng cho những người thuộc văn hóa Hy-lạp và La-mã. Nhưng trong giai đoạn đầu, giáo quyền rất dè dặt đối với việc hội nhập với nền văn hóa, phong tục, lễ nghi “ngoại giáo”. Phải đợi một thời gian khá lâu, Tin Mừng mới thật sự hội nhập vào nền văn hóa La-Hy, mới dám sử dụng triết học, ngôn ngữ, phong tục, lễ nghi của xã hội La-Hy để trình bày sứ điệp cứu độ cho quần chúng chịu ảnh hưởng của hai nền văn hóa này.

            Thành quả trên sở dĩ có được là nhờ nỗ lực suy tư và khả năng thích nghi của lớp người tiến bộ như Giustinôâ, Clêmentê thành Alexandria, Origène, Basiliô, Ambrosiô, Augustinô... Thánh Basiliô, chẳng hạn, công nhận rằng văn chương ngoại giáo cũng có thể giúp tín đồ hiểu rõ Đạo Chúa hơn và ngài khuyên các bạn thanh niên nên bắt chước con ong biết hút lấy những nhị hoa ở các nền văn minh đó.

            Nghiên cứu triết học Hy lạp, thánh Clementê thành Alexandria đã khám phá ra “mầm Ngôi Lời” và giá trị khai mở của nó đối với chân lý mạc khải. Ngài mạnh dạn viết: “Chúa là nguyên nhân mọi sự thiện. Có những điều thiện Ngài là nguyên nhân trực tiếp, chẳng hạn như Cựu ước và Tân ước, cũng có những sự thiện qui hướng về đó, như triết học Hy lạp chẳng hạn. Có khi chính triết học cũng là một di sản mà Chúa trực tiếp ban cho người Hy-lạp, trước khi Ngài làm cho tiếng gọi của Ngài vang tới họ, bởi vì triết học đã giáo hóa họ để dẫn đưa họ đến với Đức Kitô. Triết học đóng vai trò chuẩn bị: nó mở lối và dẫn tới điều mà Đức Kitô sẽ hoàn thiện... Đã hẳn, chỉ có một con đường chân lý duy nhất, nhưng tương tự như một dòng sông không bao giờ cạn, trong đó những nguồn nước từ khắp nơi đổ về”.

            Con đường thích nghi đó vẫn được tiếp nối bởi các thế hệ Kitô giáo kế tiếp. Khi ánh sáng đức tin bắt đầu ló dạng ở Bắc và Đông Âu, chẳng hạn, các vị thừa sai tiên khởi đã khéo léo dung hòa đức tin Kitô giáo với phong tục và tín ngưỡng địa phương, nhờ vậy công cuộc truyền giáo tiến triển mạnh. Giáo chủ Grêgoriô Cả đã sáng suốt chỉ thị cho các nhà truyền giáo tại Anh quốc phải cố gắng trình bày Đạo Chúa sao cho phù hợp tối đa với tâm thức, luân lý và phong tục địa phương. Ngài cũng khuyên không nên triệt hạ tất cả đền thờ, hủy bỏ những ngày lễ tôn giáo hiện có, mà cố gắng biến đổi thành những nơi thờ phượng Thiên Chúa và những ngày lễ Công giáo.

            Tại Đức, thánh Bonifaciô cũng đưa ra nhiều sáng kiến thích nghi táo bạo. Nhưng đặc sắc nhất có lẽ là sự nghiệp của hai anh em thánh Cyrilliô và Methodeo trên cánh đồng truyền giáo tại Đông Âu. Hai vị áp dụng một kế hoạch truyền giáo theo mô hình “hội nhập văn hóa”: chấp nhận những giá trị cổ truyền của dân bản xứ, khởi xướng phong trào văn hóa địa phương, đề cao tinh thần độc lập và tự hào dân tộc. Chính các vị đã sáng chế mẫu tự Slave, rồi sử dụng nó để phiên dịch Tin Mừng, trình bày giáo lý Công giáo và dùng làm ngôn ngữ chính thức trong phụng vụ.

            Trên lãnh vực tư tưởng, các thần học gia đã thành công trong việc xây dựng một nền thần học Kitô giáo, dựa trên những quan niệm căn bản của triết học Hy-lạp. Chúng ta biết rằng ở vào đầu thế kỷ XIII, triết học của Aristote bị cấm dạy tại các Đại học và Học viện Công giáo, vì sợ ảnh hưởng tiêu cực đến đức tin. Ngay từ năm 1210, mệnh lệnh “cấm thư” được giáo quyền ban hành: Nec libri Aristotelis, nec commenta legantur (triệt để cấm đọc sách của Aristote và những sách giải thích tư tưởng của ông). Tuy nhiên, thánh Albertô, thánh Tôma và những thần học gia tiến bộ không hề chùn bước. Các vị đã sáng suốt sử dụng triết học của Aristote vừa để xây dựng một nền thần học Kytô giáo, vừa có thể trả lời cho những yêu sách tri thức của thời đại. Bộ Tổng luận thần học của thánh Tôma là một đóng góp to lớn cho nền thần học Kytô giáo, nhưng đồng thời đã gây rất nhiều tranh luận và sóng gió trong Giáo hội thời bấy giờ. Ngày 7 tháng 3 năm 1277, đúng vào lễ giỗ thứ ba của thánh Tôma, Tổng giám mục Paris kết án 219 luận điểm thần học, trong số đó có khoảng 12 luận điểm liên hệ đến tư tưởng thánh Tôma. Tất cả các giáo sư cũng bị “vạ tuyệt thông”, nếu trong thời hạn 7 ngày không trình diện ở tòa Tổng giám mục để “làm tờ tự thú” và ký tên chấp nhận bản án. Tình trạng ngột ngạt này kéo dài gần 50 năm. Mãi đến ngày 18 tháng 6 năm 1323, khi Tôma được phong thánh, những nghi kỵ và tố cáo mới bắt đầu giảm nhẹ. Hai năm sau (1325), Tổng giám mục Paris tuyên bố hủy bỏ bản án năm 1277, chấm dứt hoàn toàn “vụ án tư tưởng” thời danh trong lịch sử Giáo hội .

Rất tiếc kể từ đó trở đi, Giáo hội hình như ngày càng đóng khung và mọc rễ trong khung cảnh Tây phương. Vô hình trung Kitô giáo bị đồng hóa với văn hóa Tây phương. Vấn đề thích nghi và hội nhập nếu được đặt ra, thì cũng chỉ giới hạn vào một vài chi tiết phụ thuộc, vô thưởng vô phạt.
              
Công bằng mà nói, nguyên tắc Nhật bản với người Nhật bản, Trung hoa với người Trung hoa, Việt Nam với người Việt Nam đã được giáo triều đề ra cho các thừa sai đầu tiên đi theo những thuyền buôn của Bồ-Đào-Nha hay Tây-Ban-Nha. Đặc biệt, ngày 10-11-1659, khi cử hai giám mục đầu tiên sang Đàng Trong và Đàng Ngoài, Bộ Truyền giáo đã chỉ thị rõ rệt:

            “Các vị đừng tìm cách, đừng tìm lý lẽ để thuyết phục các dân tộc thay đổi nghi thức, tập tục và phong hóa của họ, ngoại trừ tất cả những gì rõ rệt trái ngược với tôn giáo và luân lý. Không có gì vô lý bằng đem nước Pháp, nước Tây Ban Nha, nước Ý Đại Lợi hay một nước Âu châu nào khác vào Trung quốc. Đừng đem đến cho các dân tộc ấy xứ sở của quí vị, mà chỉ đem đến đức tin, một đức tin không chối từ cũng không làm tổn thương các nghi thức, các tập tục của bất cứ một dân tộc nào, miễn là tất cả những cái đó không có gì là xấu, mà trái lại, đức tin của chúng ta muốn người ta cứ duy trì và bảo vệ các thứ đó. Có thể nói rằng tự bản chất con người luôn quý trọng, yêu mến và trân trọng tập tục của xứ sở mình hơn hết. Vậy nguyên nhân gây nên xa cách và hận thù là tìm cách thay đổi tập tục riêng của mỗi dân tộc, nhất là những tập tục đã có từ lâu đời. Vậy việc gì sẽ xảy ra, nếu các vị xóa bỏ các tập tục đó để thay thế bằng tập tục của xứ sở của các vị, đưa từ ngoài vào? Đừng bao giờ so sánh tập tục của các dân tộc đó với các tập tục của các nước Âu châu. Trái lại các vị hãy tìm cách làm quen với những tập tục đó. Hãy chiêm ngưỡng và tán dương những gì đáng tán dương. Những gì không đáng ca ngợi, nếu không nên ca ngợi om xòm như những kẻ nịnh hót, thì cũng nên khôn ngoan đừng phê phán hay đừng bao giờ kết án một cách thiếu suy xét hoặc quá đáng...”.

            Hơn 340 năm đã trôi qua, nhưng những chỉ dẫn của Huấn dụ nói trên vẫn còn giá trị và vẫn duy trì tính thời sự. Rất nhiều quyết định hội nhập văn hóa của Giáo hội vẫn chỉ là những bản văn chết. Cố gắng thích nghi độc đáo của Mathieu Ricci, chẳng hạn, bị chết yểu. Mà dù sống sót thì cũng rất “khó nuôi” trong bối cảnh của Giáo hội hậu công đồng Tridentinô. Phải thành thực nhìn nhận rằng suốt dọc mấy thế kỷ liền sau Công đồng Tridentinô, vấn đề thích nghi đã bị bỏ quên hay không được thực thi đúng mức. Không ai có thể phủ nhận lòng nhiệt thành, sự tận tụy và tinh thần hy sinh cao độ của các thừa sai ở trong giai đoạn này. Điều đáng buồn là các vị chỉ chú tâm xây dựng một Giáo hội tại Á châu theo khuôn mẫu tiền chế của Tây phương, hơn là kiến tạo một Giáo hội  có khả năng sống và diễn tả niềm tin bằng những chất liệu đặc biệt của Á châu.

            Về phương diện thần học, các thừa sai thường đánh giá một cách quá tiêu cực các tôn giáo truyền thống của Á châu. Trong “Phép giảng tám ngày”, linh mục Đắc Lộ đã nhận định như sau về đức Phật: “Bên Thiên-trúc-quốc thì có vua, tên là Tinh Phạn, mà đẻ con, dạ thì sáng, song kiêu ngạo lắm. Đã lấy con vua nào gần đấy gả cho, mà sinh đẻ được một con gái đoạn, thì khiến đi ở trên rừng một mình, dẫu vợ cãi mà chẳng cho, vì mình đã quen làm việc dối, như pháp môn phù thủy, mà muốn cho người ta hãi mà khen nó, và lông láo thong dong nói khó cùng ma quỉ. Mà trong nhiều quỉ dạy nó, thì có hai quỉ, tên là Alala và Calala, quen làm thầy nó liên, mà nó thì ngồi giữa hai thầy quỉ ấy, mà dạy nó đầu hết chớ tin gì có Chúa trời, cùng đặt tên nó là Thích-Ca (...). Lại khiến nó thờ bụt, mà lấy mình Thích-ca làm cội rễ bụt ấy, như thể lấy mình là kẻ làm nên trời đất, mà trị đấy” . Thánh Phanxicô Xaviê còn có những nhận định gay gắt và cực đoan hơn. Trong một mức độ nào đó, có thể coi lối đánh giá tiêu cực này như quan điểm chung của các thừa sai thời đó. Ngay cả nơi những thừa sai có tinh thần cởi mở như Nobili, Ricci... chúng ta cũng nhận thấy cái nhìn thần học tiêu cực về các tôn giáo ngoài Kitô giáo.

            Cuối thế kỷ XIX, những biến đổi về khoa học kỹ thuật, nhân chủng học, xã hội học và văn hóa đã đặt ra rất nhiều vấn đề cho Giáo hội. Công cuộc canh tân và thích nghi, một lần nữa lại được đặt ra một cách khẩn thiết. Nhiều nhà tư tưởng và thần học gia đã cố gắng tìm một hướng đi phù hợp với hoàn cảnh mới, ngõ hầu rút ngắn hố cách biệt giữa Giáo hội với thời đại, nhất là với con người. Có thể nói những văn kiện lớn của Công đồng Vatican II sở dĩ có được là nhờ những tìm kiếm và suy tư khắc khoải của những người như Mercier, J. Lagrange, Teilhard de Chardin, L-J. Lebret, J. Maritain, E. Gilson, D. Chenu, H. de Lubac, K. Rahner, Y. Congar...

Trái với khuynh hướng của nhiều nhà “hộ giáo” ngày xưa thường chỉ nhìn các tôn giáo ngoài Kitô giáo dưới khía cạnh tiêu cực và nhiều khi còn bóp méo cho thêm xấu xa, thảm hại hơn, Công đồng Vatican II khai mở một giai đoạn mới trong tương quan đối với các nền văn hóa và các tôn giáo. Hiến chế mục vụ về “Giáo hội trong thế giới hôm nay” viết: “Giáo hội được sai đến với mọi dân tộc và mọi thời đại. Giáo hội không thiên vị, không liên minh với bất cứ một chủng tộc, một quốc gia, một lối sống riêng biệt nào, cũng không theo phong tục cổ đại hay hiện đại nào hết. Luôn trung thành với truyền thống, đồng thời ý thức sứ mệnh đại đồng của mình, Giáo hội hòa mình với những nền văn hóa khác nhau, do đó Giáo hội làm cho chính mình và các nền văn hóa thêm phong phú”.                   .            

Khi phân tích những giá trị mà các tôn giáo ngoài Kitô giáo đã cống hiến cho nhân loại, Tuyên ngôn về “Liên Lạc của Giáo hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo” khẳng định: "Giáo hội không hề phủ nhận những gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo đó. Với lòng tôn trọng chân thành, Giáo hội xét thấy những phương thức hành động và lối sống, những huấn giới và giáo thuyết kia, tuy có nhiều điểm khác với chủ trương mà Giáo hội duy trì, nhưng cũng thường đem lại ánh sáng Chân lý, Chân lý chiếu soi cho mọi người (...). Vì thế Giáo hội khuyến khích con cái mình nhìn nhận, duy trì và cổ động cho những thiện ích thiêng liêng cũng như luân lý và những giá trị xã hội văn hóa của các tín đồ thuộc các tôn giáo khác, bằng con đường đối thoại và hợp tác” .
                     
Mặc dù cảm nghiệm tâm linh và vấn đề cứu độ các dân tộc là một đề tài xưa như trái đất, nhưng bọâ môn thần học nghiên cứu về các tôn giáo chỉ hình thành vào cuối thập niên 60 và bắt đầu được hệ thống hóa kể từ thập niên 70 của thế kỷ XX, nhờ chiều hướng cởi mở của Vatican II và sự phát triển của phong trào đại kết. Mục đích của bộä môn thần học này là nghiên cứu vai trò cứu độ của các tôn giáo, dưới ánh sáng của Lời Chúa và trong viễn tượng lịch sử cứu độ, theo đó Đức Kitô là Khởi đầu (Alpha) và Chung kết (Omega). Câu hỏi căn bản sẽ là: trong bối cảnh đa phức tôn giáo phải hiểu vai trò “trung gian cứu độ” của Đức Kitô như thế nào? Bên ngoài con đường cứu độ chính thức của Đức Kitô, có còn con đường cứu độ nào khác không? Nếu có, thì đâu là tương quan giữa Ngài với những con đường cứu độ này? Và, như vậy, Đức Kitô sẽ chuyển giao ơn cứu độ cho các tín đồ ngoài Kitô giáo như thế nào?

Đây là một vấn đề rất khó khăn và tế nhị, vì động chạm đến niềm tin và xác tín, mà cho đến nay thần học Công giáo chưa có một giải đáp đồng thuận. Tuyên ngôn “Dominus Jesus” của Thánh bộ Đức tin công nhận: “Về cách thế chuyển giao cho những người ngoài Kitô giáo ân sủng cứu độ của Thiên Chúa, ân sủng luôn luôn được Đức Kitô trao ban trong Thần khí và trong mối tương quan huyền nhiệm với Giáo hội, Công đồng Vatican II chỉ xác quyết vỏn vẹn rằng Chúa ban ân sủng này "theo những con đường mà chỉ duy Ngài biết thôi” . Theo Tuyên ngôn, trách nhiệm của “thần  học là phải tìm cách đào sâu tư tưởng này. Công tác thần học này cần được khuyến khích, bởi vì chắc chắn nó giúp hiểu rõ hơn các chương trình cứu độ của Thiên Chúa và những hình thức thực hiện các chương trình này” .

            Cuốn sách nhỏ này nằm trong chiều hướng suy tư và kiếm tìm nói trên ngõ hầu hiểu rõ hơn chương trình cứu độ phổ quát của Thiên Chúa. Ước muốn khiêm tốn của người viết là giới thiệu một số thông tin và đưa ra một vài nhận định chung quanh vấn đề gai góc và to lớn này. Đây chưa hẳn là một cuốn nhập môn của “thần học về các tôn giáo”, hiểu theo nghĩa chặt của hạn từ. Có thể nói trọng tâm của cuốn sách hầu như xoay quanh chủ đề: “Cứu độ, trong viễn tượng đa phức tôn giáo” . Với nhiệm vụ thông tin, người viết cố gắng giới thiệu một số quan điểm thần học chính và dĩ nhiên không nhất thiết đã hoàn toàn đồng ý với tất cả những gì được trình bày trong những trang dưới đây.


Đường vào Thần học về tôn giáo - Vai trò của đối thoại trong thế giới hôm nay



Chương 1

Vai trò của đối thoại
trong thế giới hôm nay



Trong mấy thập niên gần đây, đối thoại đã trở thành danh từ thời thượng, một cách thế sống và một lối giải quyết vấn đề được đề cao trong xã  hội. Có thể coi đây là một  trongnhững thành công lớn của nhân loại khi quyết định dùng trí tuệ thay thế cho bạo lực và bom đạn, ngõ hầu giải quyết một cách hữu lý và phù hợp với nhân tính hơn những bất đồng quan điểm, tranh chấp, xung đột ... giữa người với người, cũng như giữa các quốc gia với nhau.

Cuộc đàm phán hiện nay giữa Bắc và Nam Hàn, giữa Israel và Palestine là dẫn chứng điển hình về đối thoại trong lãnh vực chính trị. Các hiệp ước thương mại giữa Hoa Kỳ với Trung quốc, cũng như giữa Hoa kỳ và Việt Nam là những thí dụ khác về phương diện kinh tế. Những suy nghĩ dưới đây về vai trò của đối thoại sẽ là một dẫn nhập cần thiết để đưa vào đối thoại liên tôn.

1-         Ý nghĩa của đối thoại

            Như đã nói ở trên, trong thế giới hôm nay, đối thoại đã trở thành một từ thông dụng và quen thuộc, được sử dụng trong tất cả các lãnh vực của cuộc sống: đối thoại trong đời thường, đối thoại giữa các thế hệ, các nền văn hóa, các cộng đồng tôn giáo, các thành phần xã hội, các nhà khoa học, các thể chế chính trị, các khu vực kinh tế, các đại học, các xí nghiệp và ngay cả đối thoại với máy vi tính. Sâu xa hơn, ở thời đại dân chủ và đa nguyên văn hóa này, tất cả là đối thoại, bởi vì tất cả trở thành đề tài để thảo luận, suy tư và kiếm tìm. Nhiều quan niệm và qui tắc ngày xưa tưởng chừng như chân lý vĩng cửu, bất di bất dịch và bất khả xâm phạm... cũng đang bị mổ xẻ và giải thích lại. Tất cả là đối thoại và đối thoại nghiễm nhiên trở thành một biểu hiện tích cực của thời đại .  

Người Việt Nam chúng ta đã dùng từ “đối thoại” để dịch chữ “dialogos” của Hy Lạp. Tiếp đầu ngữ “dia” vừa có nghĩa là tách rời và phân biệt, vừa có nghĩa là thông qua. Trong khi đó “logos” là lời nói, lý luận, trí huệ, nhưng đồng thời cũng ám chỉ chiều sâu của ngôn từ và ý niệm. Có người hiểu “logos” na ná như chữ “Đạo” trong “Đạo Đức kinh” của Lão Tử, cho nên không thể dễ dàng chuyển ngữ mà không mất mát.

            Đối thoại trước hết là nói với và nói cùng người khác. Đây không phải chỉ là nói suông, nhất là độc thoại  hay nói để thóa mạ, vu khống, lấn át người khác. Lời nói ở đây phải là nhịp cầu –bằng biểu tượng, tâm linh hay hành động– để đi tới tha nhân, để lấp đầy khoảng trống và hố cách biệt sâu thẳm giữa ta với người. Nó đòi hỏi phải vượt thắng cảm xúc, thiên kiến, tập quán để bình thản đặt vấn đề, kiên nhẫn lắng nghe và sáng suốt lãnh hội quan điểm của người.

Đối thoại đã được sử dụng để chuyển đạt sứ điệp tôn giáo. Rất nhiều kinh điển của các tôn giáo là những cuộc đối thoại giữa Thượng Đế với các vị Thiên sai hay các ngôn sứ. Nhiều bậc thầy thời cổ đại cũng dùng đối thoại như một phương pháp chuyển đạt kiến thức cho môn sinh. Nội dung của đối thoại vì vậy rất phong phú và cực kỳ đa diện. 

Với triết gia Socrate và Platon, chẳng hạn, đối thoại là một phương thế truy tầm chân lý, ngang qua hình thức trao đổi và đối chất về tư tưởng. Hiền triết Socrate sử dụng đối thoại như một đường hướng triết lý giáo dục. Dưới cái nhìn của ông tổ triết học Tây phương, đối thoại là thái độ dấn thân kiếm tìm chân lý, xây dựng niềm cảm thông giữa người với người. Theo Socrate, sứ mệnh của giáo dục là soi sáng và hướng dẫn, chứ không phải truyền đạt kiến thức một cách máy móc cho người khác. Đây là một hành trình chung giữa thầy và trò. Ông thường mệnh danh phương pháp giáo dục này là “khích biện pháp” (maieutique) và ông thú nhận đã học được nó nơi nghề hộ sinh của mẹ ông. Cũng như hộ sinh không bao giờ có nghĩa là sinh thay cho người khác, mà chỉ giúp đỡ để sản phụ sinh dễ dàng và đảm bảo hơn. Nhiệm vụ của giáo dục cũng không phải là chụp lên đầu môn sinh những quan niệm tiền chế, nhét vào óc họ những tri thức khách quan, mà là khai mở, soi sáng, hướng dẫn, giúp đỡ ... hầu làm triển nở chân lý tiềm ẩn nơi mỗi người.

Trong thế giới hiện đại, điều kiện tiên quyết của một cuộc đối thoại đích thực là phải chấp nhận đa nguyên, đa diện, đa văn hóa và trân trọng những khác biệt căn bản giữa người với ta. Đối thoại vì vậy là cuộc gặp gỡ giữa các nhân vị, chứ không phải chỉ là sự so sánh về ý tưởng hay một cuộc đọ sức giữa các hệ thống. Do đó cần phải quan tâm đến mỗi con người cụ thể, với tính tình, kinh nghiệm sống, trình độ học vấn, điều kiện xã hội riêng biệt. Nói cách khác, qua đối thoại mỗi cá nhân được nhìn nhận như những nhân vị có quyền lợi, tự do, cá tính và sắùc thái riêng.

Đây cũng là một trao đổi ngôn ngữ theo hai chiều hỗ tương: chấp nhận ý nghĩa của ngôn từ và tính khả tri của nó. Ngôn ngữ thông thường là qui ước xã hội, đặt nền tảng cho mọi cuộc đối thoại. Dĩ nhiên ngôn ngữ có những giới hạn tất yếu của nó. Chính nơi đối thoại tôn giáo chúng ta càng nhận thức được những giới hạn và bất tất của ngôn từ. Cảm nghiệm tâm linh và thần bí luôn vượt trên mọi thứ ngôn ngữ  và có khả năng dẫn đưa con người đến chỗ kết hợp sâu xa với Thực Tại Siêu Việt.

Đối thoại luôn bao hàm tính hỗ tương giữa cho và nhận. Dù trong thực tại lịch sử rất ít khi tính hỗ tương này được thực hiện một cách quân bình và trọn vẹn, nhưng một cuộc đối thoại đích thực không thể chấp nhận ưu thế tiên thiên của một đối nhân nào trên những người khác. Không thể có đối thoại đích thực nếu một phe nào đó tự cho mình nắm chắc chân lý và người khác hoàn toàn lầm lạc. Chính ở nơi đây chúng ta đối diện với những khó khăn đặc biệt của đối thoại liên tôn.

Tự bản chất, đối thoại đòi hỏi phải tôn trọng sự khác biệt và chối từ tham vọng chinh phục người khác. Người khác tự bản chất không những không thể đồng hóa với ta, mà còn thực sự khác ta rõ rệt. Nhưng chính nơi sự khác biệt này ta tìm thấy căn tính và đặc thù của họ, làm cho họ là họ, chứ không phải là ta hay một ai khác. Sau một quá trình đối thoại chân thành, rất có thể chúng ta sẽ vượt qua một số bất đồng ban đầu để đi đến một đồng thuận. Dù sao, không thể dễ dàng đốt giai đoạn hay nuôi ý đồ “xâm lược” từ ban đầu.
           
Cám dỗ thường xuyên của chúng ta là muốn nhanh chóng loại trừ mọi khác biệt, muốn đúc nặn môn sinh theo quan niệm và hình ảnh của riêng mình. Ra như cứ canh cánh sợ rằng người khác, đặc biệt những “đứa con tinh thần” của ta, sẽ không giống ta. Thế nên ta cố sức nhào nặn, bắt chúng phải vào một khuôn nhất định, phải cảm nghĩ, tư tưởng, hành động y hệt như ta. Tệ hơn nữa nhiều khi còn lấy tiêu chuẩn chủ quan của ta để đánh giá, phê phán và xếp loại tha nhân: ai phù hợp với tiêu chuẩn của ta sẽ được liệt vào hạng gương mẫu, còn ai có lối sống, nếp nghĩ, tâm thức khác ta... sẽ bị nghi ngờ hay đánh gía thấp.

Nếu bình tâm suy nghĩ chúng ta sẽ nhận ra tính phi lý của thái độ nói trên. Phần nào nó tương tự như tâm trạng của anh chàng hủi trong sách cổ ngày xưa. Lần kia, vợ anh sinh đứa con đầu lòng. Anh chàng hết sức nôn nóng, vừa mừng vừa lo. Nửa đêm vội vã thắp đèn đi xem mặt con. Chỉ canh cánh lo sợ đứa con sẽ khác mình, nghĩa là không hủi như anh!

Ở đây chắc chắn không thiếu tình yêu và thiện chí. Có điều nó bị hiểu sai và đặt không đúng chỗ, nên có nguy cơ biến thành chiếc giường Procuste. Theo thần thoại Hy Lạp, Procuste là một tên tướng cướp kỳ khôi. Y có một chiếc “gường kiểu mẫu”. Mỗi lần bắt được ai, y đặt lên chiếc gường đó để đo. Nếu vừa vặn, y sẽ thả cho đi bằng an; nếu thừa, y sẽ dùng gươm xén bớt; còn nếu ngắn quá, y sẽ kéo cho tới khi bằng chiếc gường mới thôi. Suốt dọc lịch sử nhân loại, biết bao nhiêu lần người ta đã áp dụng chiếc giường Procuste này vào lãnh vực giáo dục, xã hội, chính trị, tư tưởng, tôn giáo?

            Vì không chấp nhận tính đa nguyên và đa diện của cuộc sống, rất nhiều lần sự khác biệt của tha nhân đã gây nên nỗi bất an, lo sợ, phiền muộn. Nhiều khi ta đau khổ vì không chịu nổi sự khác biệt của tha nhân hay vì thấy tha nhân có lối sống, quan điểm chính trị, niềm tin tôn giáo... không giống ta. Ta quên rằng chính vì tha nhân là tha nhân nên khác ta, và, nhìn từ một góc độ khác, những khác biệt đó không những có thể làm giàu cho xã hội, mà còn bổ túc và làm triển nở bản sắc của riêng ta. Khai trừ những khác biệt giữa người với ta có thể dẫn đến thái độ áp đặt, độc quyền và độc tôn, mà hậu qủa tai hại của nó là có thể khai trừ chính tha nhân. Thái độ đối thoại, trái lại,  đòi hỏi chấp nhận và trân trọng tính đa nguyên, cũng như sự khác biệt căn bản giữa người với ta để cố gắng bắc nhịp cầu thông cảm và tiến tới một giải pháp thỏa đáng cho cả đôi bên. 

            Cuối cùng, đối thoại luôn bao hàm thái độ dấn thân và chấp nhận thách đố. Nó đòi hỏi người đối thoại phải ra khỏi tháp ngà định kiến và can đảm sửa đổi  chính quan điểm và cuộc sống của mình. Người đối thoại chân thành là người dám chấp nhận đặt lại ngay cả những xác tín của riêng mình, dám biến đổi chính cuộc sống hay cách thế sống. Như vậy một cuộc đối thoại đúng nghĩa không loại trừ khả năng thay đổi cuộc đời hay ăn năn hoán cải.

2.         Thái độ bao dung

            Cổ nhân ta thường lấy “khoan dũ ôn nhu” làm như một đường lối sử thế hợp tình hợp lý. Theo danh từ Hán Việt, khoan là rộng rãi, độ lượng, còn dung là tiếp nhận, tha thứ. Như vậy, bao dung là rộng lòng chấp nhận, tha thứ, bao bọc và độ lượng với người khác.       

Từ “bao dung” này cũng thường được dùng để dịch chữ “tolerantia” của tiếng La-tinh và những danh từ tương đương trong ngôn ngữ Âu Mỹ. Theo nguyên ngữ, “tolerantia” mang một ý nghĩa khá tiêu cực, ám chỉ thái độ bó buộc phải chấp nhận những điều khó chịu và bực bội về thể lý. Thiết tưởng cũng không nên quên rằng quan niệm “tolerantia” này xuất hiện vào thế kỷ XVI, trong bối cảnh của cuộc chiến tranh giữa Công giáo và Tin lành. Sau nhiều cuộc đọ sức tàn khốc, nhưng bất phân thắng bại, hai phe đành chấp nhận giải pháp bao dung tôn giáo: vùng nào đạo nấy và đạo ai người ấy giữ. Dần dần thái độ bao dung được áp dụng cho tất cả các tôn giáo và niềm tin khác. Từ thế kỷ XIX, quan niệm bao dung được áp dụng rộng rãi trong các lãnh vực tôn giáo, tư tưởng, xã hội, chính trị.

Do tính phức tạp, hàm hồ và lấp lửng của hạn từ này, người ta không khỏi cảm thấy ngập ngừng và do dự khi phải xác định bao dung là gì. Thường thường người ta vẫn hiểu bao dung dưới góc độ tiêu cực, bao hàm một thái độ sống lấp lửng và mâu thuẫn : nghĩ một đàng, làm một nẻo ; không tán thành điều mình cho là xấu, nhưng cuối cùng ra như lại cho phép nó xảy ra (?). Phải chăng đó là thái độ tri hành bất nhất, nếu không muốn nói là lập lờ và giả dối? Hình như  trong thực tại cuộc sống, có những trường hợp vì không thể làm cách khác, đành phải chấp nhận bao dung! Chẳng hạn khi không đủ khả năng để chống lại sự dữ mà mình lên án, hoặc khi thấy việc loại trừ sự dữ nói trên có thể gây nên những đổ vỡ lớn hơn, nên cực chẳng đã đành chấp nhận “bao dung”.

Ngay từ thế kỷ XIII, thánh Tôma nghĩ rằng chính Thiên Chúa cũng không muốn cưỡng chế con người trong việc hành thiện. Có một số trường hợp, xem ra Ngài còn cho phép xảy ra sự dữ “bởi vì việc triệt tiêu những sự dữ này có thể đi đến chỗ phá huỷ những điều thiện lớn hơn và gây nên những sự dữ trầm trọng hơn”. Từ cái nhìn hiện thực đó thánh tiến sỹ kết luận : “Bởi vậy, trong việc trị nước, nhà cầm quyền có thể bao dung đối với một vài hành động xấu, vì sợ rằng nếu làm ngược lại, một số điều thiện sẽ không được thực hiện hay e rằng sẽ xẩy ra những điều xấu lớn hơn” .

Tuy nhiên nếu nhìn từ phía phủ định, nghĩa là từ những gì không phải là bao dung, có lẽ vấn đề sẽ bớt tiêu cực hay ít phức tạp hơn. Trước hết, bao dung không có nghĩa từ bỏ các xác tín cá nhân, để trở thành thứ người ba phải. Bao dung đích thực đòi hỏi phải có lập trường và xác tín riêng, nhưng không áp đặt nó trên người khác, trái lại chấp nhận để người khác cũng có những xác tín riêng của họ. Nói cách khác, chỉ thực sự có thái độ bao dung, khi dám sống và chết với xác tín của mình, nhưng đồng thời biết tôn trọng xác tín của người khác và tạo cơ hội để họ được sống chết với xác tín của riêng họ. Nếu như  “một người không hề suy tư thì chẳng bao giờ có xung đột tư tưởng”, cũng thế một người « ba phải », hoài nghi, không có lập trường ... cũng chẳng bao giờ có thể gọi là người bao dung đích thực.

Bao dung đích thực không đồng nghĩa với thái độ thụ động, xề xoà dễ dãi, bất cần, phó mặc. Cũng chẳng phải là thứ “mũ ni che tai”, để cho “thiên hạ sống chết mặc bay”. Càng không phải là thái độ nhắm mắt làm ngơ trước sự dữ, vì sợ phải biểu lộ lập trường, lấy quyết định hầu đối phó với những hiện tượng tiêu cực. Bao dung luôn đòi hỏi phải có thái độ và biết đánh gía sự đời người thế, mặc dù có những lúc sự đánh giá này chỉ nằm trong tâm thức, chứ chưa biểu lộ ra bên ngoài.

Trong mấy thập niên gần đây, nhiều người cho rằng ý niệm bao dung theo quan niệm nói trên hơi tiêu cực, nên đã đưa ra quan niệm khác tích cực hơn. Theo họ, bao dung là “đường lối sử thế chủ yếu làm sao để người khác được tự do trình bày những quan điểm mà chúng ta không đồng ý và nhất là cho phép mỗi người sống theo những nguyên tắc và xác tín riêng”.

Cơ quan văn hóa của Liên Hiệp quốc (UNESCO), chẳng hạn, đã nhìn bao dung dưới góc độ tích cực này. Mục đích và ý nghĩa của thái độ bao dung là tôn trọng quyền lợi và tự do của người khác. Bao dung là nhìn nhận và chấp nhận những khác biệt giữa các cá nhân, là biết lắng nghe người khác, trao đổi với họ và hiểu họ. Bao dung là nhìn nhận sự khác biệt về văn hóa, cởi mở trước những quan niệm và hình thức suy tư khác biệt (…...). Bao dung là nhìn nhận rằng không có văn hóa, quốc gia và tôn giáo nào độc quyền về kiến thức hay chân lý. Bao dung là một cách thế của tự do : giải thoát ta khỏi những định kiến và thái độ giáo điều. Người bao dung là người biết làm chủ quan điểm và hạnh kiểm của mình. Như vậy, bao dung là một thái độ tích cực đối với tha nhân, tuyệt đối loại trừ cái cao ngạo, tự đắc tự phụ.

Trong viễn tượng đó, chúng ta có thể quan niệm bao dung như một cách thế đối sử nhân ái, cởi mở và tôn trọng. Người bao dung không hề dửng dưng đối với những gía trị tôn giáo, luân lý, chính trị hay ý hệ, trái lại là người có xác tín sâu xa, nhưng đồng thời biết tôn trọng xác tín của người khác. Có thể coi đây như một hình thức trần tục hóa và hiện đại hóa lòng yêu thương tha nhân : biểu lộ sự trân trọng, niềm cảm thông và mối quan tâm thực sự đối với cuộc sống, nếp nghĩ, quan điểm, chọn lựa... của người khác.




3.         Thái độ bất bao dung

Trong lịch sử nhân loại, chúng ta đã chứng kiến không ít những sự kiện và chứng tích đau lòng về thái độ bất bao dung. Chỉ cần liệt kê những cuộc chiến tranh, những vụ tàn sát đẫm máu vì lý do quyền bính, chủng tộc, tôn giáo, ý hệ, kinh tế, chính trị ... là đã có một bảng danh sách dài lê thê về tội ác của bất bao dung. Bao nhiêu máu và nước mắt đã đổ ra! Biết bao “đống xương Vô Định” đã chất thành núi!

Phật giáo thường được coi là tôn giáo từ bi và bao dung nhất. Xét theo bản chất giáo lý cũng như cách thức truyền bá Phật pháp, Phật giáo không chấp nhận sự kỳ thị và cưỡng chế, mà lấy hòa đồng làm cứu cánh, do đó dễ tạo mối quan hệ cộng hưởng với các tôn giáo khác. Tuy nhiên trong giai đoạn hưng thịnh ở thời Lý Trần, chẳng hạn, một vài lần Phật giáo đã rơi vào cám dỗ đóng “vai trò chủ thể” trong “hội nhập văn hóa”. Cũng có trường hợp cưỡng chế các tôn giáo khác, chẳng hạn như khi Trần Nhân Tông đi các nơi kêu gọi phá bỏ dâm từ .

Ngoài ra, cũng không thiếu cảnh các tăng sĩ xách thiền trượng đánh bể đầu, nát xác môn sinh của các giáo phái đối lập! Nếu như chưa thể kiểm chứng được câu chuyện các tăng sĩ Thiếu Lâm tự đi hành hiệp giang hồ, thì ở Nhật chuyện Phật giáo vũ trang là một thực tại lịch sử. Thật vậy, ở thời trung cổ, tại Nhật Bản, tăng sĩ chia thành nhiều phe phái, võ trang đầy đủ y hệt như các vị Samourai. “Đạo tăng binh của các chùa lớn có thể lên tới một hay nhiều trung đoàn, bởi thế họ tung quân đánh nhau, chùa này đánh chùa kia, và dĩ nhiên vị shogun địa phương nào không khéo hòa giải với chùa, cũng bị đạo tăng binh này đánh cho thất điên bát đảo (...). Hiện tượng tăng binh này chỉ chấm dứt khi một chùa nọ mạnh đến độ mang quân về uy hiếp thủ đô Kyoto, mưu sự nghiệp bá vương. Các lãnh chúa phàm tục khác phải đi một đường bát quốc liên quân mới dẹp yên dần dần các đạo tăng binh này” .

Đứng trên phương diện nghiên cứu lịch sử, chẳng ai có thể phủ nhận rằng trong mấy thế kỷ vừa qua các nước Tây phương đã phạm rất nhiều lầm lỗi chống lại lòng nhân ái và quyền lợi của các dân tộc nhược tiểu. Nhưng đừng vội cho rằng bất bao dung là độc quyền của Tây phương. Lịch sử của các dân tộc Á châu cũng đầy dẫy những chuyện dã man và tàn bạo.

Trước đây, nhà văn Lỗ Tấn đã mổ xẻ những thói hư tật xấu của dân tộc Trung hoa với hy vọng giúp cho dân tộc của ông vượt qua những căn bệnh trầm kha . Mới đây ông Bá Dương, một nhà báo người Tàu hiện sống ở Đài Loan, sau khi phân tích cái xấu của người Trung quốc, đã thẳng thắn nêu câu hỏi: “Trung quốc diện tích rộng thế, văn hóa lâu đời thế, đường đường là một nước lớn. Thế mà, thay vì có tấm lòng bao la, người Trung quốc lại có tấm lòng thật hẹp hòi. Cái tấm lòng bao la đáng lẽ chúng ta phải có ấy chỉ đọc thấy được trong sách vở, nhìn thấy được trên màn ảnh (...). Nếu chỉ cần bị ai lườm một cái mà đã có thể rút dao ra rồi, thử hỏi nếu có người không đồng ý với mình thì sự thể sẽ ra sao?

Người Tây phương có thể đánh nhau vỡ đầu rồi vẫn lại bắt tay nhau, nhưng người Trung quốc đã đánh nhau rồi thì cừu hận một đời, thậm chí có khi báo thù đến ba đời cũng chưa hết. Tại sao chúng ta có thể thiếu lòng bao dung đến như thế? (...) Thời phong kiến xưa, sau một triều vua lại đến một triều vua, chẳng có gì thay đổi. Lật đổ triều đại trước, thiết lập triều đại mới, cách biểu thị duy nhất về sự bất đồng của mình với triều vua trước là đốt phá các cung vàng điện ngọc mà triều trước đã xây để làm cung điện mới của mình.

Lý do viện dẫn để đốt phá vẫn được đưa ra là vì triều trước chính sách bạo tàn, triều đại của mình là nhân hậu. Nhân hậu nên mới phải làm cái việc đem chính sách nhân hậu của mình để tàn phá nhà cửa của chính sách hung tàn. Cứ đời này sang đời khác như thế, về mặt tư tưởng thì chẳng xây dựng được gì, nhưng nhà cửa thì cứ tiếp tục đốt phá để biểu lộ sự khác nhau” .

Ở Việt Nam chẳng hạn, từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV, các nhà Nho và các quan lại theo Khổng giáo đã đấu tranh bất khoan nhượng để loại trừ Phật giáo khỏi vai trò lãnh đạo đó sao? Nhìn kỹ sẽ thấy thái độ của nhà Nho đời Trần đối với Phật giáo có một cái gì tương tự với thái độ của nhà Nho triều Nguyễn đối với Công giáo. Chính thái độ bất bao dung của tầng lớp sĩ phu sân Trình cửa Khổng đã gây nên không biết bao nhiêu tang tóc kinh hoàng cho người Công giáo.

Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện có lý khi cho rằng sở dĩ các nhà Nho chủ trương loại trừ Phật giáo là vì “đối diện với Phật giáo là đạo quả quyết mọi sự ở thế giới này đều hư ảo, thậm chí không thực, chủ trương diệt ngã, và hướng tâm trí người ta về những hy vọng diệu thế, Khổng giáo lại dạy rằng con người trước tiên có tính xã hội và bị rằng buộc bởi những nghĩa vụ xã hội”. Đến triều Nguyễn, “các nhà Nho đã phản ứng mạnh mẽ hơn nhiều chống lại Kitô giáo, không phải chỉ vì các thừa sai Công giáo đã nhiều khi đóng vai trò mở đường cho chủ nghĩa thực dân, mà cũng vì những khái niệm ơn Chúa, bí tích, Thiên Chúa nhập thể đều xa lạ với tư tưởng Khổng giáo” .  

Thái độ bất bao dung này không phải chỉ được áp dụng cho những người “ngoại đạo”, mà cho cả giới sĩ phu. Việc giết công thần và nhất là lệ “tru di tam tộc” (giết cả ba họ), chẳng hạn, là một dẫn chứng hiển nhiên nhất thái độ bất bao dung này. Việc miệt thị và coi rẻ phụ nữ phải chăng cũng là một hệ qủa của quan điểm thủ cựu của các môn đồù thuộc “đạo Khổng”? Rồi sự căng thẳng giữa uy quyền và tự do, tập thể và cá nhân không những rất rõ nét trong xã hội Đông phương ngày xưa, mà vẫn còn đè nặng trên cuộc sống hôm nay. Đó phải chăng là những hậu quả và âm hưởng tiêu cực của thái độ bất bao dung?

Khách quan mà nói, nơi các tôn giáo độc thần như Do thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo, thái độ tuyệt đối hóa và bất bao dung thường xuất hiện ở một mức độ cao  hơn. Về vấn đề này, Giáo hội Công giáo đã đấm ngực ăn năn, vì trong qúa khứ đã nhiều lần hăng say dùng bạo lực và những hình thức bất bao dung để bảo vệ “chân lý” hoặc để “danh Chúa được cả sáng hơn”. Trên lý thuyết, hiện nay Giáo hội Công giáo đã chọn thái độ bao dung làm đường lối ứng sử với những tôn giáo và những học thuyết khác biệt với giáo huấn chính thức của mình. Nếu trước đây hàng giáo phẩm thường lấy việc kết án và “vạ tuyệt thông” làm lợi khí để bảo vệ “truyền thống đức tin”, thì Công đồng Vatican II đã công khai từ chối sử dụng biện pháp đó, ngay cả đối với những học thuyết mà Giáo hội không thể chấp nhận.

Thiết tưởng cần ghi nhận rằng nơi các tôn giáo độc thần, thái độ bất bao dung còn có một lý do sâu thẳm và nhiêu khê hơn: xác tín về duy nhất tính của Thiên Chúa và triệt để tính của niềm tin. Thật vậy, theo đúng bản tính của Ngài, Thiên Chúa chỉ có thể là duy nhất, bao gồm tất cà và vượt trên vạn sự. Bất cứ ai quan niệm rằng có hơn một Thiên Chúa, như vậy là đã thực sự chẳng hiểu chút nào về Thiên Chúa. Tertuliano đã quả quyết: “Nếu Thiên Chúa không phải là duy nhất, Ngài không phải là Thiên Chúa”.

            Hồng y Karl Kasper tuyên bố trong một hội nghị quốc tế về truyền giáo: “Đối với tâm tình của Kitô hữu, việc tuyên xưng niềm tin nơi một Thiên Chúa duy nhất không thể hiểu theo một ý nghĩa thuần tuý số lượng: ngang qua xác quyết này người ta không chỉ muốn nói rằng chỉ có một Thiên Chúa, hơn là hai hay ba. Theo Thánh Kinh, đây không phải là một diễn ngữ về số lượng mà trước hết là một xác quyết về phẩm tính. Cần phải nhìn niềm tin nơi một Thiên Chúa duy nhất trong tương quan mật thiết với yêu sách của quyết định thuộc về Thiên Chúa một cách triệt để, bao gồm tất cả tâm hồn và tinh thần (Mc 12,30). Không ai có thể phục vụ hai chủ (Mt 6,24). Thiên Chúa là Đấng chiếm hữu chúng ta một cách trọn vẹn, trong tất cả mọi chiều kích của hữu thể chúng ta, và Ngài làm chúng ta được mãn nguyện một cách trọn vẹn” .
 
Quan điểm này có thể bị coi là tự cao tự đại và gây khó khăn không ít cho đối thoại liên tôn , nhưng nó nói lên tính độc đáo của xác tín về niềm tin: một con người được vinh thăng trở thành Thượng Đế, một Thiên Chúa đã nhập thể làm người; cá biệt triển trở thành phổ quát, vĩnh hằng và vô thường đi vào thời gian. 

Từ đó, Đức Kitô chiếm vị trí ưu việt trong chương trình cứu rỗi, vì Ngài là hiện thân của mạc khải tối hậu, phổ quát và tiêu chuẩn cho tất cả. Không có Ngài, vị “Cứu tinh dứt điểm”, thì mọi tôn giáo đều bất toàn và dang dở. Mọi giá trị và chân lý trong các tôn giáo khác, cho dù hoàn bị đến đâu chăng nữa, vẫn phải được “hàm chứa” trong Đức Kitô. Phải chăng yêu sách tuyệt đối về vai trò của Đức Kitô phần nào gắn chặt với cái nghịch lý và nghịch thường của chính thập giá, ngôn từ và cuộc đời của Ngài? Nếu như hạt thóc gieo vào lòng đất mà không chết đi, không thể đâm mầm nẩy lộc, cũng thế, các cá nhân và tập thể không thể trở thành môn đệ đích thực của Đức Kitô nếu không thanh luyện, hoán cải và thay đổi đến tận gốc rễ?

Không phải vô căn cứ khi Đỗ Mạnh Tri nhận định: “Nếu bỏ một bên những điều kiện xã hội, lịch sử, tâm lý, phải công nhận Kitô giáo, và nói rộng ra: ba tôn giáo độc thần (Do Thái giáo, Hồi giáo, Kitô giáo) rất khó dung hòa. Ba tôn giáo này có thể có thái độ rất cởi mở và tôn trọng đối với các tôn giáo khác, nhưng chính cốt lõi niềm tin của ba tôn giáo ấy có cái gì như một đòi hỏi tuyệt đối làm cho tín đồ dù có hòa với các tín ngưỡng khác mấy đi nữa cũng vẫn bất đồng.

Cụ thể, người Công giáo Việt Nam vẫn hoàn toàn là người Việt Nam, không thể bật rễ. Nhưng đức tin Kitô giáo khi thấm nhuần con người Việt Nam, theo thiển ý của tôi, thay đổi con người này đến tận gốc rễ. Đó là điều khó hiểu. Và vì thế có người không muốn hiểu, hay hiểu lầm. Đối với người Việt Nam, đã là dân Á đông lại là dân từng bị trị, cách đánh giá một tôn giáo du nhập từ Tây phương cùng một trật với sự bành trướng của Tây phương về mọi phương diện, hiển nhiên có nhiều mắc míu. Điều tự nó đã khó hiểu lại thành khó hiểu hơn” . 

Để có thể cương quyết bước vào thiên niên kỷ mới và có khả năng xây dựng một thế giới nhân ái và bao dung hơn, Giáo hội Công giáo đã công khai “sám hối” về những lỗi lầm trong quá khứ. Một trong những lỗi lầm được nêu lên là thái độ bất bao dung và bạo động chống lại những người ly khai, chiến tranh tôn giáo, dùng vũ lực trong các chiến dịch của nghĩa binh thánh giá, những hình thức tra tấn, cưỡng bức... Giáo hội đã bày tỏ nỗi đau đớn sâu xa về những hành động bạo lực được sử dụng để bảo vệ chân lý, nhưng hoàn toàn đi ngược với Tin Mừng: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của mọi người, trong một vài giai đoạn của lịch sử, người Kitô hữu đôi lúc đã sống bất bao dung và đã không trung thành với giới luật yêu thương lớn lao, như thế đã làm hoen ố khuôn mặt Giáo hội, Hiền thê của Ngài. Xin tỏ lòng thương xót đối với những người con tội lỗi của Ngài, và xin thương đón nhận quyết tâm của chúng con nhằm kiếm tìm và cổ võ chân lý trong thái độ dịu dàng của đức ái, với niềm xác tín rằng chân lý chỉ có thể chiến thắng bởi chính chân lý mà thôi”.       


Đường vào Thần học về tôn giáo - Đối thoại liên tôn



Chương 2

Đối thoại liên tôn


Cái thời đau buồn và đen tối của những cuộc chiến tranh tôn giáo đang lui dần về quá khứ. Nhân loại văn minh và tiến bộ không còn chấp nhận việc áp đặt hay cưỡng bức người khác phải chấp nhận một tôn giáo hay một ý hệ trái với thâm tín của riêng họ. Quyền tự do tín ngưỡng và tự do hành động theo lương tâm được triệt để đề cao và được nhìn nhận như một thành phần cốt yếu của nhân quyền.

Trong lãnh vực tôn giáo, đối thoại còn mang một ý nghĩa và sứ vụ đặc biệt trên hành trình kiếm tìm chương trình cứu độ nhiệm mầu của Thiến Chúa. Vì thế, “ước muốn đối thoại không chỉ đơn thuần là một chiến lược để chung sống hòa bình giữa các dân tộc, mà còn là thành phần chủ yếu trong sứ mệnh của Giáo hội, bởi vì bắt nguồn trong cuộc đối thoại cứu độ đầy tình yêu giữa Chúa Cha với nhân loại, qua Chúa Con, trong quyền năng của Chúa Thánh thần. Giáo hội chỉ có thể hoàn thành sứ mệnh đúng như cách thế Thiên Chúa đã hành động trong Đức Giêsu Kitô: Ngài đã làm người, chia sẻ cuộc sống nhân loại và dùng ngôn ngữ nhân loại để chuyển đạt sứ điệp cứu độ. Đối thoại mà Giáo hội đề nghị được xây dựng trên logíc của Nhập thể. Do đó, chỉ với tình liên đới nhiệt thành và vô vị lợi mà Giáo hội đối thoại với người Á châu, là những người đang kiếm tìm chân lý trong tình yêu”.

1-         Từ bao dung đến tự do tôn giáo

            Trên bình diện cứu độ, thái độ bao dung và đối thoại còn mang một ý nghĩa thâm sâu hơn. Đây là tiến trình đồng hành kiếm tìm chân lý, với hy vọng hiểu được đôi chút cuộc đối thoại nhiệm mầu yêu thương giữa Đấng Tối Cao với con người suốt dọc lịch sử nhân loại. Công đồng Vatican II khẳng định chương trình cứu độ phổ quát của Thiên Chúa  và mời gọi các tín hữu cố gắng khám phá “hạt giống Ngôi Lời” mà Thánh Linh không những đã “gieo vào tâm hồn con người” mà còn gieo nơi “lễ nghi và văn hóa của các dân tộc”.

Theo Công đồng, để cuộc đối thoại được hữu hiệu, cần can đảm nhìn nhận những điểm đồng quy và những điểm khác biệt. Tuyên ngôn “Thời đại chúng ta”, về liên lạc của Giáo hội với các tôn giáo ngoài Kitôâ giáo, công nhận sự đóng góp của các tôn giáo trong nỗ lực trả lời cho nỗi khắc khoải của con người khi đối diện với những câu hỏi căn bản về ý nghĩa và mục đích của cuộc đời; sự hiện diện của khổ đau, sinh, bệnh, lão, tử; vấn đề giải thoát và hạnh phúc đích thực, v.v.

Công đồng “không hề phủ nhận những gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo đó. Với lòng kính trọng chân thành, Giáo hội nhận thấy những phương thức hành động và lối sống, những huấn giới và giáo thuyết (của các tôn giáo này), tuy có nhiều điểm khác với chủ trương mà Giáo hội duy trì, nhưng cũng đem lại ánh sáng  Chân lý, Chân lý chiếu soi cho hết mọi người (...). Vì thế, Giáo hội khuyến khích con cái mình nhìn nhận, duy trì và cổ động những thiện ích thiêng liêng cũng như luân lý và những giá trị xã hội văn hóa của các tín đồ thuộc các tôn giáo khác, bằng con đường đối thoại và hợp tác cách thận trọng và bác ái với tín đồ của các tôn giáo ấy, nhưng đồng thời vẫn là chứng tá của đức tin và đời sống Kitôâ giáo” .

Sau khi đã chân thành nhìn nhận những điểm dị đồng trong gia tài truyền thống, hai bên sẽ tìm hiểu nguồn gốc của những khác biệt, mà nhiều khi chỉ tùy thuộc vào cách thức diễn tả của mỗi nền văn hóa. Chủ đích của đối thoại liên tôn là tiến đến một điểm đồng quy nào đó, vượt lên trên những khác biệt tất nhiên. Dù sao, người Kitôâ hữu cần ý thức rõ rệt và sáng suốt hơn về chân lý của đức tin. Đây không phải là một thứ chân lý thuộc loại siêu hình, mà là ân sủng Thiên Chúa ban cho nhân loại qua Đức Kitôâ. Chính nhờ Đức Kitôâ mà chúng ta nhận thức được phẩm giá con người, cũng như biết nhận diện tác động của Thánh Linh nơi các tôn giáo khác nói riêng và trong lòng lịch sử nhân loại nói chung.
Đặc biệt trong tuyên ngôn về “Tự do tôn giáo”, Công đồng đã can đảm làm một cuộc chuyển đổi não trạng: bước từ tình trạng chấp nhận, chịu đựng có tính cách tiêu cực (tolerantia religiosa) sang thái độ trân trọng và đề cao tự do tôn giáo (libertas religiosa). Theo Công đồng tự do tôn giáo là một quyền căn bản của con người, “nằm ở chỗ con người không bị cưỡng bức bởi bất cứ một áp lực nào của cá nhân, của đoàn thể xã hội hay của bất cứ quyền bính trần gian nào khác. Theo ý nghĩa đó, trong lãnh vực tôn giáo, không ai bị ép buộc hành động trái với lương tâm, cũng không ai bị ngăn cấm hành động theo lương tâm, cho dù đó là hành động riêng tư hay công khai, một mình hay cùng với người khác, trong những giới hạn chính đáng” .
Quyền tự do tôn giáo này không xây dựng trên nội dung của niềm tin tôn giáo, bởi vì trong các niềm tin tôn giáo có thể chứa đựng một số yếu tố tiêu cực và sai lầm. Trái lại, căn bản của quyền tự do tôn giáo “được xây dựng trên phẩm giá con người, đúng như Thiên Chúa mạc khải và chính lý trí cho biết được”  và trên “phẩm giá của lương tâm” . Mặc dù lương tâm có thể sai lầm  và cũng chẳng hề có tự do lương tâm tuyệt đối, nhưng không ai bị cưỡng bách hành động trái với lương tâm hoặc bị ngăn cấm không được hành động theo lương tâm. Ngoài ra, theo Công đồng, trong thế giới hôm nay, quyền tự do tôn giáo  còn cần được xây dựng trên cơ cấu pháp lý để thực sự trở thành “một quyền công dân” .

Tiếp nối và khai triển đường hướng của Vatican II, giáo chủ Gioan Phaolô II đã đề cao hoạt động của Thánh linh nơi các tôn giáo. Chính Thánh linh thúc đẩy, thanh tẩy và cứu vớt không những từng cá nhân mà cả các nền văn hóa và các tôn giáo nữa: “Thánh linh trao ban cho mọi người, theo một cách thế mà chỉ duy Thiên Chúa biết được, khả năng được tham dự vào mầu nhiệm Phục sinh (...). Sự hiện diện và tác động của Thánh linh không chỉ liên hệ đến mỗi cá nhân, mà còn liên hệ đến xã hội và lịch sử, các dân tộc, các nền văn hóa, các tôn giáo (...). Chính Thánh linh đã gieo “mầm Ngôi Lời”, tiềm ẩn nơi các lễ nghi và văn hóa, và làm cho chúng triển nở trong Đức Kitôâ” .

Mục đích của đối thoại liên tôn là cùng nhau khám phá và làm triển nở những yếu tố “chân lý và ân sủng do sự hiện diện tiềm ẩn của Thiên Chúa” nơi mọi tôn giáo . Giáo chủ Gioan Phaolô II coi đây là một bước chuẩn bị để thực hiện chương trình cứu độ phổ quát của Thiên Chúa, một cách thế “bước đi trong tình huynh đệ, qua đó chúng ta cùng dẫn dắt nhau tiến về một mục tiêu siêu việt mà Ngài chuẩn bị cho chúng ta” .

            Chính từ viễn tượng cứu độ đó, đức Gioan Phaolô II đã qủa quyết khi ngỏ lời với các thành viên của Hội đồng Giáo hoàng về Đối thoại Liên tôn: “Việc đối thoại liên tôn, trên một mức độ sâu xa hơn, luôn luôn là cuộc đối thoại cứu độ, bởi vì chủ tâm của nó là khám phá, làm sáng tỏ và hiểu rõ hơn cuộc đối thoại vĩnh cửu mà Thiên Chúa vẫn tiếp tục thực hiện với nhân loại” .
            “Tài liệu Làm việc” của Thượng Hội đồng Giám mục Á châu nhìn nhận hoạt động mạnh mẽ và đa dạng của Thánh linh nơi các tôn giáo và văn hóa Á châu. Có thể coi các tôn giáo truyền thống tại lục địa mênh mông này như  những con đường Thiên Chúa dùng để dẫn đưa đại đa số dân tộc Á châu đến với Ngài và đây cũng là cách thế Ngài dùng để gặp gỡ họ .

            Trong Tông thư “Giáo hội tại Á châu”, giáo chủ Gioan Phaolô II tiếp nối suy tư của các Giám mục Á châu để đề cao vai trò của Thánh linh trong lịch sử cứu độ và trong lòng các tôn giáo Á châu: “Các Nghị phụ của Thượng Hội đồng đề cập đến hành động đa dạng và đổi thay của Thánh linh. Ngài liên tục gieo những mầm chân lý giữa các dân tộc, các tôn giáo, các văn hóa và triết học. Điều này có nghĩa là các tôn giáo, văn hóa và triết học nói trên có khả năng giúp dân chúng, cá nhân cũng như tập thể, tránh điều dữ và phục vụ sự sống, cũng như tất cả những gì là thiện hảo... Chính Thánh linh nâng đỡ dân chúng để họ tìm cách hiểu và chấp nhận nhau. Do đó Thượng Hội đồng có lý khi quan niệm Thần khí của Chúa như tác giả đầu tiên của cuộc đối thoại giữa Giáo hội với tất cả các dân tộc, các văn hóa và tôn giáo” .

2-         Đối thoại và giữ vững căn tính.

Vấn đề quan trọng khác đang được đặt ra: làm sao dung hòa thái độ đối thoại với việc giữ vững căn tính của mình? Đặc biệt trên bình diện niềm tin, rao giảng Tin Mừng và dấn thân vào cuộc đối thoại liên tôn phải chăng là hai điều mâu thuẫn, đối kháng và loại trừ nhau? Đâu là mối tương quan giữa đối thoại liên tôn với sứ vụ rao giảng Tin Mừng?           

            Một số người đồng hóa một cách sai lầm đối thoại với thái độ “ba phải” hay một thứ “tổng hợp bát nháo” (syncrétisme). Hình như kinh nghiệm lịch sử làm họ lo sợ tính toàn trị và thái độ bất bao dung, nếu không muốn nói là cuồng tín của nhiều con chiên ngoan đạo. Chính vì vậy, họ nghĩ rằng không thể có đối thoại đích thực nếu không sẵn sàng từ bỏ xác tín và yêu sách nội tại của niềm tin tôn giáo.

            Áp đặt quan điểm chính trị và niềm tin tôn giáo trên tha nhân đã là một thực tế đau lòng và vẫn còn là một nguy cơ thường xuyên chống lại phong trào đối thoại liên tôn. Nhưng không thể vì đó mà có thể chấp nhận chủ trương thỏa hiệp bát nháo. Làm như vậy làø không tôn trọng sự khác biệt giữa người với ta và thiếu chân thành với chính mình. Thật vậy, trong lãnh vực tư tưởng và niềm tin tôn giáo, không thể chấp nhận thái độ ba phải, xuề xòa, dễ dãi, chín bỏ làm mười.

Trong bối cảnh đó người ta hiểu được nỗi băn khoăn và lo lắng của thánh bộ Đức tin khi công bố Tuyên ngôn “Dominus Jesus”. Nhận định về thuyết tương đối hóa, Tuyên ngôn viết một cách dứt khoát: “Sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội hôm nay đang gặp nguy hiểm do các thuyết tương đối muốn biện minh cho thuyết đa nguyên tôn giáo, không những trên thực tế mà còn trên pháp lý hoặc trên nguyên tắc nữa. Các thuyết này cho rằng một số chân lý đã bị thời gian đào thải, chẳng hạn như tính cách quyết định và hoàn tất nơi mạc khải của Đức Giêsu Kitôâ, bản chất của đức tin Kitôâ giáo đối với niềm tin nơi các tôn giáo khác, sự linh ứng của Kinh Thánh, duy nhất tính cá thể giữa Ngôi Lời vĩnh hằng và Đức Giêsu thành Nazareth, tính duy nhất trong nhiệm cục cứu độ giữa Ngôi Lời Nhập Thể và Chúa Thánh linh, tính duy nhất và tính phổ quát về cứu độ của mầu nhiệm Đức Giêsu Kitôâ, vai trò trung gian cứu độ phổ quát của Giáo Hội, sự bất khả phân ly giữa Nước Thiên Chúa, Nước của Đức Kitôâ và Giáo Hội, sự hiện diện của  Giáo Hội duy nhất của Chúa Kitôâ trong Giáo Hội Công giáo”.

Theo Tuyên ngôn, các lý thuyết này xây dựng trên một số quan điểm triết học và thần học, gây rất nhiều khó khăn cho việc chấp nhận chân lý mạc khải. Chẳng hạn “xác tín cho rằng chân lý về Thiên Chúa không thể lãnh hội và diễn đạt được, cho dù qua mạc khải Kitôâ giáo; thái độ tương đối hoá đối với chính chân lý, dẫn đến quan điểm cho rằng điều đúng đối với người này sẽ không đúng đối với người khác; sự đối nghịch triệt để giữa não trạng luận lý Tây phương và não trạng tượng hình Đông phương; thuyết chủ quan, xem lý trí như là nguồn duy nhất của tri thức, trở thành bất lực để hướng cái nhìn lên cao hơn, ngõ hầu dám đạt tới chân lý của hữu thể; khó khăn trong việc hiểu biết và chấp nhận sự hiện diện trong lịch sử những biến cố quyết định và chung cuộc; việc tước bỏ chiều kích siêu hình nơi biến cố Nhập thể của Ngôi Lời vĩnh cửu và việc giản lược biến cố này vào một xuất hiện thông thường của Thiên Chúa trong lịch sử; quan điểm “tổng hợp bát nháo” trong nghiên cứu thần học, tiếp thu những tư tưởng triết lý và tôn giáo từ những nguồn rất khác biệt, mà không bận tâm đến sự hài hoà có tính hệ thống hay sự dung hợp của chúng với chân lý Kitôâ giáo; cuối cùng, khuynh hướng đọc và giải thích Kinh Thánh bên ngoài Truyền Thống và Huấn Quyền của Giáo hội” .

Đối thoại đích thực luôn đòi hỏi làm sao tiếp nhận ý kiến của người, tôn trọng những nét riêng biệt của họ, mà vẫn không đánh mất căn tính của mình. Nó đòi hỏi cả hai bên phải ý thức rõ rệt căn tính và bản sắc của mình cũng như của người. Albert Camus đã nhận định sâu sắc:  “Điều tôi mong muốn nói với quí bạn hôm nay chính là thế giới đang cần cuộc đối thoại chân chính. Thái độ giả dối cũng như im lặng đều tương phản với đối thoại. Chỉ có đối thoại thực sự giữa những người chân thành với chính mình và nói sự thật” . Nói cách khác, không thể có đối thoại đích thực với người, mà đồng thời lại “đánh lận con đen”, tự lừa dối chính mình.  
Hiểu như vậy, có xác tín, lập trường và trân trọng giữ vững bản sắc của mình không những không phải là chướng ngại, mà còn là điều kiện cần thiết để có thể đối thoại thực sự. Rất nhiều lần, những khác biệt giữa ta và người có thể giúp cả hai mở rộng tầm nhìn và phát triển căn tính. Paul Ricoeur dám nói: “Để có thể là mình, hãy đối thoại với người; nhưng để đối thoại với người, mình phải là mình”. Mấy chục năm về trước, Martin Buber đã quả quyết: “Tôi trở nên người thành toàn qua tương giao với Anh; khi trở thành Tôi, tôi gọi Anh. Tất cả cuộc sống đích thực bao hàm gặp gỡ” .

Một cuộc đối thoại đích thực đòi hỏi phải đảm nhận đồng thời hai yếu tố có vẻ trái ngược, nhưng bổ túc nhau: giữ căn tính của mình và tôn trọng quan điểm của người. Phải chăng đó là thái độ lương thiện trí thức? Người xưa thường nói: “quân tử hòa nhi bất đồng, tiểu nhân đồng nhi bất hòa”. Còn đối với triết gia Jean Lacroix, “chúng ta đã có thể định nghĩa cuồng tín là thiếu vắng đối thoại. Trái lại, lương tâm chính là đối thoại. Triết gia phải là người đối thoại tuyệt diệu” .
           
Với những gì vừa trình bày ở trên, để có thể thực hiện đúng đắn cuộc đối thoại giữa Kitôâ giáo với các tôn giáo khác, thiện chí mà thôi chưa đủ. Cần được chuẩn bị đầy đủ về trí thức, tâm linh và đạo đức. Đặc biệt cần có một tấm lòng rộng mở để đón nhận linh ứng của Thánh linh, bất cứ từ đâu đến và bất cứ do ai nói .

Về điểm này đại sư Buddhadasa có những nhận định rất chí lý: “Mang tinh thần đối thoại hoàn toàn không có nghĩa là ngây thơ tin tưởng hoặc làm cho người ta có cảm tưởng rằng mình nghĩ là vị thế của đối phương tiên quyết đã ưu việt hơn mình, bởi vì nếu mỗi người đối thoại hăm hở bênh vực quan điểm của đối phương thì cuối cùng ai sẽ đối thoại với ai đây? Mỗi người tham gia đối thoại cần phải đào sâu không những kiến thức của mình về Đạo của người, mà cả kiến thức về lý thuyết của Đạo mình nữa” 

Đây cũng là vấn đề hội nhập văn hóa với hai chiều hỗ tương: một đàng đức tin phải được diễn tả bằng chính những giá trị văn hóa của mỗi dân tộc; đàng khác nhiệm vụ của các tín hữu là cố gắng làm sao để giá trị của Tin Mừng thấm nhập và soi sáng sinh hoạt văn hóa. Tiến trình này là một tiến trình song đôi: Yêu sách hội nhập đòi hỏi phải phân tích, phê phán, đánh gía lại những hình thức và cách thế trình bày lòng tin mang nặng sắc thái văn hóa Tây phương và có thể làm lu mờ niềm tin đích thực. Nhưng đồng thời chúng ta cũng phải can đảm làm một cuộc “vượt qua” và thăng hoa dưới ánh sáng của Tin Mừng, để lột bỏ những gì tiêu cực, khiếm khuyết hay dính dấp tội lỗi nơi mỗi văn hóa...

3-         Thách đố của đối thoại liên tôn

Nếu đối thoại là một công tác nhiêu khê thì đối thoại liên tôn càng cam go và căng thẳng hơn, vì chính ở đây chúng ta động chạm tới những gì được coi như bất khả xâm phạm: xác tín và niềm tin. Đại sư Buddhadasa thú nhận “đối thoại là một công tác khó khăn và hao tổn: nó thực sự đưa đến những mối căng thẳng tâm lý cá nhân và tập thể. Trên bình diện cá nhân, đối thoại thực sự gây xáo trộn, bởi vì nó bao hàm rằng người ta phải bảo vệ bản sắc của mình, như đã thấy ở trên, đồng thời chấp nhận kẻ khác thực sự có thể dạy được cho ta một điều gì đó; điều này có nghĩa là chúng ta có thể phải thay đổi lối nhìn của chúng ta đối với một số điểm mà cho đến bây giờ chúng ta cho là đương nhiên. Đó là một thử thách có tác dụng thanh tẩy, có thể phong phú hóa việc tiếp thu những giá trị và giúp chúng ta đào sâu hơn ý nghĩa việc lệ thuộc tôn giáo của chính chúng ta.

Trên bình diện tập thể, phải chăng người hay tiếp xúc với những người khác tôn giáo và cố gắng tìm hiểu họ thường dễ bị những người trong cộng đoàn nghi ngờ là lạc giáo, thiếu niềm tin, bị cám dỗ tìm kiếm nơi khác điều họ nghĩ là không thể tìm gặp nơi tôn giáo của mình, tóm lại không còn là một Phật tử thuần thành hoặc một Kitôâ hữu tốt nữa?” .

Xưa cũng như nay, thách đố gay go nhất của đối thoại liên tôn là làm sao thực hiện tốt hành trình truy tầm chân lý cách chân thành và đích thực, không có ý đồ áp đặt quan điểm của mình trên người khác, nhưng đồng thời cũng không đánh mất căn tính riêng và bổn phận rao giảng Tin Mừng. Từ đó, một số câu hỏi căn bản sẽ được đặt ra: Khi Giáo hội chủ trương đối thoại với các tôn giáo khác, phải chăng đã gián tiếp chấp nhận không cần phải rao giảng Tin Mừng hay ít nhất đã từ bỏ “vai trò cứu độ độc nhất của Đức Kitô”â? Trái lại, nếu tích cực rao giảng Tin Mừng và mời gọi đồng loại gia nhập Đạo Chúa, thì phải chăng đã đương nhiên phủ giá trị của đối thoại liên tôn?
      
  Một số văn kiện mới đây của Giáo hội như thông điệp “Dominum et vivificantem”(1986) và “Redemptoris Missio” của đức Gioan Phaolô II, tài liệu “Đối thoại và Rao giảng” của Hội đồng Tòa Thánh về Đối thoại liên tôn và Thánh bộ Truyền giáo, tài liệu “Kitôâ giáo và các tôn giáo khác” của Ủy ban thần học quốc tế, tài liệu của Thượng hội đồng Giám mục Á châu, Tông thư “Giáo hội tại Á châu”, tuyên ngôn của Thánh bộ Đức tin “Dominus Jesus”(2000)... đã trực tiếp trả lời cho những câu hỏi hóc búa nói trên. Nói một cách tổng quát, đối thoại và rao giảng Đức Kitôâ mỗi bên có sắc thái và nhiệm vụ riêng, nhưng cả hai đều cần thiết và liên kết chặt chẽ trong sứ vụ của Giáo hội nói chung và của mỗi Kitôâ hữu nói riêng. Từ chối rao giảng Tin Mừng là phản bội lý tưởng Kitôâ giáo và đánh mất căn tính của mình. Nhưng trong bối cảnh đa phức tôn giáo hôm nay, loan báo Tin Mừng nên được thực hiện qua dạng thức đối thoại liên tôn.

Quan niệm liên kết đối thoại và rao giảng Tin Mừng được coi như chủ trương căn bản của Giáo hội hôm nay. “Cả hai đều chính đáng và cần  thiết. Chúng liên kết chặt chẽ với nhau nhưng không thay thế cho nhau: đối thoại liên tôn chân thật của người Kitôâ hữu phát xuất từ ước muốn làm cho người khác biết và yêu mến Chúa Giêsu Kitôâ mỗi ngày nhiều hơn, còn rao truyền Chúa Giêsu Kitôâ phải được thực hiện trong tinh thần đối thoại của Phúc âm. Hẳn nhiên, hai lãnh vực này độc lập, nhưng, như kinh nghiệm cho thấy,... cùng một con người duy nhất có thể dấn thân một cách khác nhau vào lãnh vực này hay lãnh vực kia” .

Nói tóm lại, tất cả Kitôâ hữu được mời gọi để thực thi sứ vụ truyền bá Tin Mừng và trong thế giới hôm nay, đối thoại được coi là một phương thế hay nhất để thực thi sứ vụ đó. Động cơ thâm sâu của sứ vụ truyền bá Tin Mừng này nằm ở mầu nhiệm tình yêu. Chính tình yêu Thiên Chúa và tha nhân thúc đẩy chúng ta loan báo Tin Mừng cho anh em ta. Đây là một tặng vật tình yêu được trao tặng cho đồng loại, với tất cả sự chân thành, trân trọng và yêu thương. Thực vậy, nếu chúng ta “thực sự yêu mến Chúa Kitôâ thì không thể không chia sẻ tình yêu đó cho người khác” .

Theo Tông thư Giáo hội tại Á châu, “nhìn từ viễn quan Kitôâ giáo, đối thoại liên tôn không phải chỉ là cách thế giúp hiểu biết và phong phú hóa lẫn nhau, mà hơn nữa là một thành phần của sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Giáo hội, một biểu lộ  của sứ vụ đối với dân ngoại. Qua đối thoại liên tôn, người Kitôâ hữu trình bày xác tín về sự viên mãn của ơn cứu độ chỉ đến từ Đức Kitôâ và Giáo hội mà họ là thành viên (...). Mặc dù Giáo hội vui mừng nhìn nhận tất cả những gì là chân thật và thánh thiện trong các truyền thống tôn giáo của Phật giáo, Ấn giáo và Hồi giáo, như một phản ảnh của chân lý soi sáng mọi người, điều đó không giảm thiểu trách nhiệm và bổn phận của Giáo hội đối với việc cương quyết rao giảng Đức Kitôâ như là “Đường, Sự thật và Sự sống”(...) Sự kiện tín đồ các tôn giáo khác có thể lãnh nhận ân sủng của Thiên Chúa và được Đức Kitôâ cứu độ bên ngoài những phương tiện thông thường mà Ngài đã thiết lập, không loại trừ lời mời gọi chấp nhận đức tin và chịu phép rửa mà Thiên Chúa muốn cho mọi dân tộc” .

Tiếp nối chiều hướng đối thoại mà Công đồng Vatican II đã khai mở cho Giáo hội, Tuyên ngôn “Dominus Jesus” của Thánh bộ Đức tin cũng nhìn nhận vai trò và giá trị của đối thoại liên tôn. Tuyên ngôn tái khẳng định: “Nhìn nhận một cách cởi mở và tích cực các giá trị mà các truyền thống tôn giáo đã làm chứng và cống hiến cho nhân loại, Tuyên ngôn của Công đồng về Liên Lạc của Giáo Hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo khẳng định: "Giáo Hội không hề phủ nhận những gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo đó. Giáo hội nhìn nhận, với lòng kính trọng chân thành, những cách thế hành động và lối sống, những  giới luật và giáo thuyết đó, mặc dù trong nhiều điểm có khác biệt với điều mà Giáo hội duy trì và chủ trương, tuy nhiên cũng thường mang lại một tia sáng chân lý chiếu soi mọi người” . Tiếp nối trong cùng một chiều hướng suy nghĩ này, sứ vụ rao giảng Chúa Giêsu Kitô, "Đường, Sự Thật và Sự Sống" (Ga 14, 6), được thể hiện hôm nay qua con đường đối thoại liên tôn. Tuy nhiên cuộc đối thoại này chắc chắn không thay thế, mà đúng hơn  đồng hành với sứ vụ đi tới các dân tộc (missio ad gentes) (...). Cuộc đối thoại liên tôn này, thành phần của sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội, bao hàm thái độ cảm thông, mối tương quan hiểu biết hỗ tương và làm giàu cho nhau, trong sự vâng phục chân lý và tôn trọng tự do” .

Hiểu theo ý nghĩa đó, rao giảng Tin Mừng không những không tương phản với đối thoại liên tôn, mà còn nhìn nhận một số giá trị cứu độ nơi các tôn giáo khác. Muôn đời rao giảng Tin Mừng vẫn là sứ vụ cương yếu của Giáo hội, nhưng trong bối cảnh đa phức tôn giáo và đa diện văn hóa hôm nay, rao giảng Tin Mừng cần được thực hiện dưới dạng thức đối thoại liên tôn. Thần học gia Dòng Đa-Minh người Pháp, Claude Geffré, nhận định một cách sâu sắc và xác đáng ý nghĩa của rao giảng Tin Mừng trong thời đại chúng ta: “Chắc chắn, hôm nay chúng ta có cái nhìn tích cực hơn về khả năng cứu độ của các tôn giáo khác, tuy nhiên vẫn duy trì tất cả sự cần thiết của  sứ vụ rao giảng Tin Mừng, ngay cả khi mục đích của nó không còn là ước muốn bằng mọi cách bành trướng Giáo hội dưới chiêu bài là cần phải trở lại với Kitôâ giáo và cụ thể hơn với Công giáo để được cứu độ. Bất chấp khả năng của mọi người có thể đạt tới ơn cứu độ hay không, sứ vụ của Giáo hội luôn luôn vẫn là rao truyền rằng Nước Trời đã đến qua Đức Giêsu–Kitôâ, và tất cả những ai hành động theo Tin Mừng, cũng hành động một cách bí ẩn để thực hiện Nước Trời trong Đức Giêsu–Kitôâ. Như vậy, trọng điểm của sứ vụ truyền giáo nằm ở việc rao giảng Nước Trời và sự tới đến của nó trong Đức Giêsu–Kitôâ hơn là nhấn mạnh đến việc cần thiết gia nhập Giáo hội để được cứu độ” .

Mặt khác, trong bối cảnh đa phức tôn giáo và toàn cầu hóa hôm nay, đối thoại liên tôn không thể chỉ dừng lại ở phạm vi ngôn từ và lý thuyết. Nếu Giáo hội công giáo muốn đối thoại hữu hiệu với các tôn giáo và con người hôm nay thiết tưởng cần trả lời cho những thách đố và yêu cầu của thời đại. Để có thể đối thoại hữu hiệu, hai thách đố đặc biệt đang đặt ra cho Giáo hội tại Á châu: khả năng dấn thân phục vụ con người, đặc biệt những người nghèo, những người bị loại trừ, những người không có tiếng nói... và khả năng trả lời cho những nhu cầu tâm linh sâu thẳm của con người thời đại, đặc biệt của giới trẻ.

Thêm vào đó, sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho người Á châu hôm nay có đặc điểm hỗ tương: vừa trao tặng, vừa lãnh nhận. “Hãy theo cung cách của chính Đức Giêsu, là nói cho người ta biết Thiên Chúa đang ở giữa họ, ngay trong lòng họ, bây giờ và tại đây, chứ không phải tại Giêrusalem hay ở một nơi nào khác, một thời nào khác. Nói khác đi, chính từ thứ nước uống hằng ngày mà người ta có thể khám phá ra nước hằng sống (x. Ga 4,7-26). Bởi vì chính Thiên Chúa đã sáng tạo nên vạn sự, do đó, một cách nào đó, phải nói rằng sự hiện hữu của các tôn giáo ngoài Kitô giáo, cũng đều do sự quan phòng của Ngài” .

Theo cung cách đó, tiến trình rao giảng Tin Mừng sẽ không làm cho ai bị nghèo nàn hay phải mất mát bản sắc văn hóa của mình. Trái lại, sẽ phong phú hóa cả người cho lẫn người nhận. Tông thư “Giáo hội tại Á châu” viết: “Các Kitôâ hữu tại Á châu có thể được hưởng những yếu tố chung với tín đồ của các tôn giáo và văn hóa khác của Á châu, chẳng hạn, với Hồi giáo thái độ qui chiếu tất cả nơi ý định của Thiên Chúa, với các tín đồ Ấn giáo việc thực nghiệm tâm linh, chiêm niệm, hành động từ bỏ và tinh thần bất bạo động, với các Phật tử thái độ siêu thoát và từ bi, với Khổng giáo đức hiếu thảo và nhân bản, với tín đồ Đạo giáo thái độ giản dị và khiêm hạ, với tôn giáo cổ truyền thái độ ân cần và trân trọng đối với thiên nhiên. Giáo hội tại Á châu có thể cống hiến rất nhiều cho tín đồ các tôn giáo khác: giá trị của hòa giải và an bình, tuân phục ý muốn của Thiên Chúa, phẩm giá thánh thiêng của tất cả các nhân vị, tình yêu thương và dấn thân phục vụ tha nhân nhân, giáo huấn xã hội của Giáo hội, thăng tiến con người dưới mọi hình thức, giá trị của khổ đau và hiến thân phục vụ là trung tâm của mầu nhiệm Đức Giêsu Kitôâ” .

Dưới tác động của Thánh linh, mỗi tín hữu được mời gọi lên đường. Cần can đảm kiếm tìm những cách thế tốt nhất, hữu hiệu nhất và phù hợp với Tin Mừng nhất để trao tặng cho tha nhân những chứng từ của tình yêu Thiên Chúa và dẫn dắt nhau tiến về mục tiêu siêu việt. Đây là một hành trình khó khăn, thăm thẳm và diệu vợi.

Liệu có kết qủa gì không? Sẽ đi về đâu và cho đến bao giờ? Chẳng ai có thể trả lời thỏa đáng câu hỏi trên. Nói cho cùng, “chỉ duy Thiên Chúa biết lúc nào và vào giai đoạn nào sẽ hoàn thành hành trình thăm thẳm mà con người đang lần bước tìm gặp Ngài” . Cũng chỉ duy Ngài có khả năng viết những dòng chữ thật thẳng bằng những nét ngoằn nghèo, hay vẽ những đường cong tuyệt mỹ với những nét thẳng. Nhiệm vụ của chúng ta trong lúc này là mạnh dạn dấn thân vào con đường đối thoại với tất cả khả năng của trí tuệ, sức mạnh của con tim và niềm tin tưởng lạc quan nơi quyền năng của Thiên Chúa, Đấng tác tạo và hướng dẫn muôn vật theo kế hoạch yêu thương nhiệm mầu của Ngài.